CHƠN LÝ

Cập nhật 2012-02-17 15:19:35

ÐẠI ÐẠO TAM KỲ PHỔ ÐỘ
TÒA THÁNH TÂY NINH
CHƠN LÝ
Tác giả NGUYỄN TRUNG HẬU
Có trình cho Hội Thánh kiểm duyệt,
y theo Luật Ðạo ngày 12 October 1928
Hội Thánh Giữ Bản Quyền
______________________________________________________________________________________
CHƠN LÝ Trang 2 / 39


______________________________________________________________________________________
CHƠN LÝ Trang 3 / 39
MỤC LỤC
 Lời Tựa
I. Ðại Ðạo
II. Ðạo thờ Trời
III. Tam giáo hiệp nhứt
IV. Tu hành
V. Ðức tin
VI. Ðức chí thành
VII. Lòng bác ái
VIII. Thất tình, lục dục
IX. Biển khổ
X. Ðạo Bát Chánh
XI. Lương tâm
XII. Tam qui, Ngũ giái
 Danh mục những quyển sách trong kết tập "ÐẠI ÐẠO CHƠN LÝ YẾU
LUẬN"
______________________________________________________________________________________
CHƠN LÝ Trang 4 / 39
______________________________________________________________________________________
CHƠN LÝ Trang 5 / 39
LỜI TỰA
Phàm trong việc Ðạo, người chưa thông chơn lý, hoặc chưa tìm ra chơn lý, luận
biện tất phải sai lầm, thành ra chơn lý vẫn có một, song mỗi người mỗi do theo kiến thức
mình mà thích giải đạo lý khác nhau, vì vậy mới hay xa chánh gốc (chơn ngươn).
Tỉ như bốn ngọn đèn, cũng thì thắp một thứ dầu, cũng thì chung một ánh sáng, mà
giọi ra chỗ tỏ, chỗ lờ, chỗ xanh, chỗ đỏ. Ấy cũng bởi ngọn đèn nầy chụp bóng trong,
ngọn kia bóng đục, ngọn nọ bóng xanh, ngọn nọ lại bóng đỏ.
Lý luận trong quyển sách "Chơn lý” nầy sở dĩ cũng như một bóng đèn trong bốn
bóng tỉ thí trên đó vậy. Tỏ hay lờ, xanh hay đỏ, chỉ nhượng cho cặp mắt tinh đời của quý
vị cao nhơn xem lấy.
Chơn thành ngụ ý góp nên lời,
Lý luận dầu ai bắt nhặt lơi.
Lược giải Ðạo Trời nương lẽ chánh,
Biên thành một bổn chút khuyên đời.
Tháng Tám, năm Mậu Thìn.
NGUYỄN TRUNG HẬU
______________________________________________________________________________________
CHƠN LÝ Trang 6 / 39
CHƠN LÝ
I. ÐẠI ÐẠO
Vạn vật trong Càn Khôn, Thế Giái đều do một căn bổn, một nguyên lý mà ra (la
Cause primordiale). Cái nguyên lý ấy là khí Hư Vô. Dầu cho Trời Ðất cũng không ngoài
cái công lệ ấy. Thái Cực là ngôi của Ðức Chí Tôn (Ðấng Tạo Hóa) mà Thái Cực cũng do
khí Vô Cực (khí Hư Vô) mà ra. Khí Vô Cực lại do chỗ động tịnh (manifestation) mà biến
thành Thái Cực.
Nguyên hồi khí Hồng Mông (le Chaos) chưa phân phán, là lúc sơ khởi khí Vô Cực,
ở không gian chỉ mờ mờ mịt mịt. Thoạt nhiên có hai lằn nguyên lực không biết gốc ở đâu
mà ra, nên gọi là "Hư Vô chi khí”: một thứ tánh cang gọi là Dương, một thứ tánh nhu gọi
là Âm. Hai nguyên lực ấy xung đột lẫn nhau nổ ra một khối lửa lớn gọi là Thái Cực (ấy là
ngôi của Ðức Chí Tôn). Thái Cực động mà sanh lại khí Dương, động Cực rồi lại tịnh mà
sanh khí Âm, tịnh Cực rồi lại động, động Cực rồi lại tịnh, cứ một động, một tịnh như vậy
mà phân Lưỡng Nghi, gài Tứ Tượng, lập thành Bát Quái, rồi Bát Quái mới vận chuyển
theo mạng lịnh của Ðức Chí Tôn. Lần lần khối lửa Bát Quái nứt văng ra mà thành muôn
muôn vàn vàn ngôi tinh đẩu, gọi là biến hóa vô cùng. Khi Bát Quái vận chuyển thì không
khí thảy đều chuyển động mà xoay quanh theo ngôi Thái Cực, rồi gom thành một khối
tròn gọi là quả Càn Khôn (Le Kosmos). Cái sức không khí vận chuyển càng lâu càng yếu
bớt, thì lại càng dang ra xa, thì quả Càn Khôn lại càng lớn rộng ra thêm. Lần lần lớp
không khí bao ngoài vỏ quả Càn Khôn đông đặc lại mà trở nên dày hơn khối không khí ở
trong.
Sau khi phân chất ra mà tác thành Càn Khôn, Thế Giái, khối Thái Cực vì hết phần
vật chất mà trở nên nhẹ nhàng hơn không khí, đoạn mới vượt lên khỏi vòng Càn Khôn
mà an ngôi nơi chốn tuyệt đối gọi là Niết Bàn hay là Bạch Ngọc Kinh.(*1)
Tuy vân, Ðức Chí Tôn chuyển Âm Dương nhị khí mà tác thành Càn Khôn, Thế
Giái, song Ngài cũng không thoát khỏi ra vòng Âm Dương. Âm Dương tức gọi là Ðạo
(Nhứt Âm, nhứt Dương chi vị Ðạo).
Vả chăng chỗ bổn nguyên của Âm Dương là khí Hư Vô, cũng gọi là khí Tiên Thiên,
nghĩa là có trước Trời Ðất (tiếng Pháp gọi La Substance précosmique, tiếng Phạn gọi là
Mulaprakriti). Cho nên sách gọi Ðạo là "Nhứt khí Hư Vô” có trước Trời Ðất. Ðạo đã là
khí Hư Vô, có trước Trời Ðất, thì Ðạo vẫn tự nhiên mà có (la Cause incréée), không tiêu,
không diệt, không trước, không sau, xem chẳng thấy, lóng chẳng nghe, rờ chẳng đụng,
gọi lớn thì chở che muôn vật, bao hàm cả Trời Ðất, đâu đâu cũng có, vô lượng vô biên,
gọi nhỏ thì từ trong hột cát, cọng rau, Ðạo vẫn cũng dẫy đầy chan chứa. Ðạo tức là cơ
______________________________________________________________________________________
CHƠN LÝ Trang 7 / 39
mầu nhiệm sanh ra vạn vật, mà vạn loại, nhứt là nhơn loại, cũng nhờ cơ mầu nhiệm ấy
mà trở về chỗ bổn căn, tức là cơ mầu nhiệm siêu phàm nhập thánh vậy.
Kinh Dịch có câu: "Lập Ðạo Trời là Âm Dương, lập Ðạo Ðất là Cang Nhu, lập
Ðạo Người là Nhơn Nghĩa”. Ðạo Trời là Thiên Ðạo, Ðạo Ðất là Thế Ðạo, Ðạo Người là
Nhơn Ðạo. Làm người ở đời cần phải giữ tròn ba Ðạo ấy mới đặng hoàn toàn nhơn cách.
***
Ðạo tuy vô hình, song phải mượn chỗ hữu hình mà thể đạo, vì phải có cái hữu hình
mới rõ đặng cái vô hình. Tỉ như một người kia muốn tỏ bày ý kiến tư tưởng mình cho
một người khác ở xa, thì phải viết chữ ra trên giấy mà gởi cho người ấy xem. Văn tự vẫn
là vật hữu hình dùng để tỏ ra cái ý kiến, tư tưởng vô hình vậy. Cho nên đạo nào cũng phải
dùng chỗ hữu hình để bảo tồn trật tự mà truyền đạo đời nầy qua đời khác. Nhưng sợ lòng
người, hoặc thái quá, hoặc bất cập, không giữ đạo chánh đặng lâu dài, nên phải lập ra luật
lệ, lễ phép để bó buộc lòng người noi theo đó mà tu, mà giữ đạo cho tròn, ấy gọi là Giáo.
Các Giáo như đạo Phật, đạo Tiên, đạo Thánh, đạo Do Thái, đạo Hồi Hồi vân vân,
đều chia cái giáo lý (doctrine) ra làm hai bộ phận: một phần hữu hình minh minh, bạch
bạch để dạy bực hạ thừa, một phần vô hình huyền huyền, bí bí để mật truyền cho bực
thượng thừa. Vì nhiều kẻ vô đạo không thế nào rõ thấu chỗ huyền bí ấy, nên hễ thấy ai
nhiễm thâm mùi đạo mà phế hết việc đời, thì lại chê là người "mê tín". Nếu những kẻ ấy
ra công tìm kiếm đạo lý sâu xa mà học hỏi, thì ắt hiểu rằng các tôn giáo đều một gốc mà
ra, đều tôn trọng một Chơn lý (la Vérité-Une) đều giống nhau ở chỗ vô hình, chỉ khác
nhau bởi chỗ hữu hình mà thôi. Cái hữu hình (*2) ấy sở dĩ khác nhau là vì các tôn giáo
phải tùy theo phong hóa và phương sanh hoạt của người nước mình, chớ tựu trung cũng
giữ đồng một chũ nghĩa rất cao thượng là làm lành, lánh dữ, hàm dưỡng tinh thần để cầu
cho linh hồn siêu việt ra vòng tử sanh luân chuyển.
***
Ðạo là vô vi, Ðời là hữu hình. Vô vi và hữu hình buộc phải hiệp nhau làm một mới
đặng. Có Ðạo tức có Ðời, có Ðời tức có Ðạo.
Như một cây đèn: luôn về ngọn lửa của nó là vật hữu hình, tỉ là Ðời. Còn cái ánh
sáng giọi ra là vô vi, tỉ là Ðạo. Người ta làm cây đèn chớ ai làm ánh sáng (vô vi), mà hễ
thắp đèn thì tự nhiên có ánh sáng.
Như một cái chén: vòng gốm ngoài là vật hữu hình, tỉ là Ðời. Còn cái lòng trống ở
trong là vô vi, tỉ là Ðạo. Người ta làm cái chén chớ không làm cái lòng trống ở giữa (vô
vi), mà hễ làm cái chén thì cái lòng trống ở giữa tự nhiên phải có.
Như một cái cửa: Luôn vừa khuôn vừa cánh cửa là vật hữu hình, tỉ là Ðời. Còn cái
khoảng trống để vô ra là vô vi, tỉ là Ðạo.
______________________________________________________________________________________
CHƠN LÝ Trang 8 / 39
Người ta làm cái cửa chớ không làm cái khoảng trống ấy (vô vi), mà hễ làm cái cửa,
thì cái khoảng trống ấy tự nhiên phải có.
Như một cái bánh xe: luôn về vành tròn và cái hoa cửi là vật hữu hình, tỉ là Ðời.
Còn cái lỗ để tra cốt vào cho bánh xe quây là vô vi, tỉ là Ðạo. Người ta làm cái bánh xe
chớ không làm cái lỗ cốt (vô vi), mà hễ làm cái bánh xe, thì cái lỗ cốt ấy tự nhiên phải có.
Cây đèn, cái chén, bánh xe, cái cửa là vật hữu vi. Người ta sở dĩ chế tạo mấy vật ấy
là để lợi dụng cái chỗ vô vi của nó mà thôi. Ấy vậy Ðạo quý trọng cho Ðời là dường nào?
Người không Ðạo chẳng khác nào có đèn mà không biết thắp cho ra ánh sáng, có chén
mà không biết chỗ đựng nước, có cửa mà không chừa khoảng trống thì làm sao mà ra vô
được, có bánh xe mà không chừa lỗ cốt thì làm sao bánh xe quây được?
***
Ðã biết rằng Ðạo nào cũng tôn trọng ông Tổ Giáo mình trên hết, nhưng há nên vì
đó mà xem thường mấy vị Giáo chủ Ðạo khác hay sao? Vả chăng các vị Giáo chủ, bất
câu là của Ðạo nào thảy đều lãnh một thiên chức giáo hóa nhơn sanh từ đời tối cổ đến
bây giờ, song những giáo lý của các Ngài thuyết minh ra cần phải tùy thời mà truyền bá.
Gặp đời ly loạn, cần phải dạy dân cho biết đạo nhơn hòa, gặp buổi nghịch luân, phải dạy
cho biết cang tam, thường ngũ. Ðến nay là đời khoa học, lại cần phải do theo lối khoa học
thiệt nghiệm mà thuyết minh đạo lý. Cho hay các lý thuyết, dẫu rằng có chỗ xung đột
khắc lẫn nhau, song cả thảy cũng đều giúp đời để tìm một Chơn lý. Vì một Chơn lý nên
các Tôn giáo đều công nhận và tôn sùng có một đấng cao nghiêm tuyệt đối, toàn tri, toàn
năng, cầm quyền thiêng liêng tạo hóa ra muôn loại.
Vả lại, ngày nay chúng ta được thông hiểu ít nhiều đạo lý, thì chúng ta phải biết ơn
và tôn trọng các Ðấng Giáo chủ cùng các bậc Cao sư đời trước, vô luận là ở về đạo nào,
vì các đấng tiền bối ấy đã ra công phát gai vạch lối cho chúng ta thấy đường ngay nẻo
sáng mà đi. Các tôn giáo sau nầy sẽ dung hòa đặng là nhờ hai lẽ vừa kể trên đây vậy.
Muốn rõ hai lẽ ấy đích xác hơn, xin xem qua hai bài luận tiếp: Một bài luận về
“Ðạo thờ Trời", một bài luận về "Tam Giáo hiệp nhứt".
(*1) Sách có câu: "Khí chi khinh thanh, thượng phù giả vi Thiên, khí chi trọng trược, hạ ngưng giả chi
Ðịa". Nghĩa là: "Khí thanh nhẹ nhàng bay lên làm cõi Trời, khí trược nặng nề đặc lại làm cõi Ðất". Khí
trọng trược tức là phần vật chất (matière) của khối Thái Cực đặc lại mà biến thành 72 địa cầu, 3000 thế giái
và muôn vàn ngôi tinh đẩu trong Càn Khôn. Nghĩa lý chữ đất là vậy đó, chớ không phải chỉ riêng có một
quả đất cỏn con của chúng ta ở mà thôi đâu, như nhiều người hiểu lầm.
Khí khinh thanh là phần tinh ba (essence) của khối Thái Cực vượt lên khỏi vòng Càn Khôn mà lập ra cõi
Trời, gọi là: "Thượng phù giả vi Thiên".
(*2) Cách thức thờ phượng và lễ nghi tế tự.
______________________________________________________________________________________
CHƠN LÝ Trang 9 / 39
II. ÐẠO THỜ TRỜI
Thử hỏi: "Ai sanh ra ta đây?”. Rồi hỏi luôn: "Ai sanh ra Ðấng mà đã sanh ra ta?".
Cứ truy nguyên như vậy cho đến ông ngươn tổ của loài người, tức là Ðấng tạo hóa ra
muôn loại. Ðấng Tạo Hóa ấy phải vô thỉ, vô chung, toàn tri, toàn năng, biến hóa vô cùng
mới sanh ra đặng muôn loại, làm cha chung của chúng sanh. Người Annam ta gọi là Ông
Trời, người Tàu gọi là Thượng Ðế, người Pháp gọi là Dieu. Người Ấn Ðộ gọi là Brahma,
người Hébreux gọi là Jéhovah, v.v… Tuy mỗi nước xưng tụng danh hiệu Ðức Chí Tôn
theo tiếng nước mình, chớ tựu trung cái tư tưởng cũng chỉ về có một Ðấng Chúa Tể mà
thôi. Ðã rằng Ðấng Tạo Hóa sanh ra muôn loại, thì con người ai lại chẳng tôn trọng cái
hồng ân vô cực ấy? Ðã rằng Ðấng Tạo Hóa là bực toàn tri, toàn năng, biến hóa vô cùng,
thì con người ai mà chẳng khủng khiếp cái hồng oai vô thượng ấy? Có tôn trọng cái hồng
ân của Ngài, có khủng khiếp cái hồng oai của Ngài, lòng người mới phát hiện ra cái quan
niệm sùng bái thờ phượng Ngài vậy.
Toàn cả thế gian, tự cổ chí kim, từ dân tộc dã man dĩ chí dân tộc văn minh, nhơn
loại bao giờ cũng chú trọng về Ðạo thờ Trời, nhưng cách thức thờ phượng cùng lễ nghi tế
tự, sở dĩ khác nhau là vì nước nào do theo phong tục nước nấy. Bên Âu Mỹ, ai cũng được
thong thả thờ Trời, chớ không phải như nước Tàu và nước Nam ta khi xưa, chỉ có nhà
vua mới đặng đứng ra tế Trời (Tế Giao) mà thôi, vì ý tưởng rằng chính mình bực Thiên
tử mới xứng đáng thay mặt cho cả thần dân mà dưng lễ tế ấy, cho rằng thần dân là bực
thấp hèn không phép đường đột ra mà tế Trời, e khi có thất lễ đi chăng, cho nên nhơn dân
dẫu rằng có lòng tôn trọng sùng bái đến đâu đi nữa, cũng không thể tỏ ra bề ngoài, mỗi
năm chỉ đợi đến ngày mồng tám tháng Giêng, đặt ra trước nhà một bàn vọng Thiên gọi là
hả hơi chút ít. Cái quan niệm thờ Trời đã sai lầm như thế làm cho đạo tâm con người một
ngày một mòn mỏi. Ai ai cũng biết rằng Ðức Thượng Ðế là Chúa Tể cả Càn Khôn Thế
Giái, khi ốm đau tai nạn thường hay cầu khẩn nơi Ngài, nhưng đối với Ngài người Nam
ta chỉ có cái chủ nghĩa "Kính trọng mà không thờ phượng". Ngặt vì tánh tình người mình
vẫn chú trọng về lối tôn sùng, mà bởi không phép thờ Trời, nên mới sanh ra cái chủ nghĩa
“Ða Thần", rồi tha hồ ai muốn tôn trọng vì Thần Thánh nào tùy ý. Trong việc tế lễ đã
chẳng có pháp mục qui điều gì cả, mà lòng mê tín cho đến đỗi thờ phượng Tà thần Tinh
quái. Nhơn đó mà sản xuất ra nào là Tả đạo Bàng môn, dị đoan, tà thuyết.
Cuối kỳ Hạ ngươn nầy, Ðạo Trời rộng mở ra tại Nam phương cho mọi người có
lòng tín ngưỡng đều được thong thả phượng thờ Ðức Thượng Ðế nơi nhà, thế thì lòng
ngưỡng vọng của chúng ta đối với Ðạo Trời từ đây mới mãn nguyện, rồi sự mê tín xưa
nay của phần nhiều trong bực hạ lưu nước ta sẽ bắt đầu lần lần tiêu diệt.
Thoảng như có người sẽ hỏi: "Tạo Hóa là Ðấng toàn tri, toàn năng, hóa sanh
muôn loại, bông hoa, cây trái, vật nào lại không phải của Ngài tạo ra, như vậy cần chi
mình phải dùng những vật của Ngài tạo ra mà cúng dâng lại cho Ngài?".
______________________________________________________________________________________
CHƠN LÝ Trang 10 / 39
Xin đáp: “Ðấng Tạo Hóa sanh ra ta lại ban cho ta một điểm linh hồn thông sáng,
nhờ đó mà ta đứng vào địa vị tối linh hơn muôn loại. Vậy ta phải biết ơn Ðấng Tạo Hóa.
Cũng bởi muốn tỏ dấu biết ơn ấy, ta mới thờ phượng Ngài, mà đặt ra hễ thờ phượng thì
phải dụng hương đăng trà quả theo lễ nghi tế tự nước nhà vậy thôi, chớ Ngài đâu phải
dùng đến".
Hoặc giả kẻ ấy gạn hỏi nữa như vầy: "Tôi tưởng lại Ngài là bực tối cao, tối trọng,
đại từ, đại bi, cần chi cho chúng ta biết ơn? Mà dầu cho chúng ta không biết ơn đi nữa,
lòng đại từ đại bi của Ngài cũng không bao giờ chấp nhứt".
Xin đáp: “Phải, Ðấng Tạo Hóa là bực tối cao, tối trọng cần chi cho ta biết ơn, lại
lòng đại từ, đại bi của Ngài vẫn không hề chấp nhứt kẻ không biết ơn Ngài, thậm chí
Ngài cũng không chấp đến kẻ không tin có Ngài nữa. Song bổn phận chúng ta đặt ra hễ
có mang ơn thì phải biết ơn mới là phải đạo. Cúng kiếng thờ phượng Ngài, mến yêu tin
tưởng Ngài, ấy là tỏ dấu biết ơn Ngài trong muôn một. Ví dụ như kẻ kia có thọ ơn nặng
của một người giàu sang, quyền quới. Kẻ ấy lại nói rằng: "Người ơn của tôi tiền của có,
quyền tước có, tuy tôi thọ ơn nặng của người, chớ không cần chi tôi phải trả ơn, vì người
có cần chi đến tôi đâu?”. Lời luận lảm nhảm như vậy, tưởng không cần thất công cãi lẽ.
Hoặc giả kẻ ấy lại còn hỏi thêm rằng: "Dầu mình biết ơn Ðấng Tạo Hóa, tưởng lại
một tấm lòng kỉnh thành tin tưởng là đủ, vì Ngài là Ðấng tối linh, tâm mình vừa động,
Ngài đã hiểu biết rồi, vị tất phải bày ra lễ nghi tế tự là cuộc phô trương bề ngoài?".
Xin đáp: “Ở nhầm thời đợi ồn ào náo nhiệt nầy, nhiều việc làm cho đạo tâm ta mau
xao lãng: nào là nỗi sớm lo, chiều liệu trong đường sinh kế, nào là cuộc bi thương hoạn
lạc, mỗi mỗi làm cho ta xa lần mối đạo. Cho nên cần phải có phương chi để nhắc nhở và
bó buộc lòng ta cho khỏi thất đạo (*1). Cái phương pháp ấy, tức là việc cúng kiếng,
phượng thờ Ðấng Tạo Hóa vậy. Vả lại, việc cúng thờ cần phải hiệp đông người và phô
trương ra một cách chí thành, chí kỉnh, có pháp mục oai nghiêm mới ra vẻ tôn giáo. Ấy
chẳng những là một phương pháp nhắc nhở lòng ta đừng lãng xao đường đạo và nuôi
nấng đức tin cho những người cùng chung một mối tư tưởng, mà lại cũng là một cách
khôi phục lòng người ngoại cuộc. Kìa một Thánh Thất đương khi hành lễ, cả bổn đạo
đồng quì lại trước Thiên bàn, miệng đương thành kỉnh niệm kinh, tinh thần đương lúc
nương theo mùi hương ngào ngạt mà bay thấu Linh Tiêu. Ðối với tấm lòng chí thành, chí
kỉnh của nhiều người hiệp lại, dầu cho ai là kẻ trước muốn chê bai phỉ báng, mà đã vào
nơi một cái hoàn cảnh oai nghiêm êm tịnh như vậy rồi, tưởng lại tấm lòng khi ngạo cũng
phải xiêu xiêu giảm xuống".
Ngày nào cái quan niệm thờ Trời khắp cả hoàn cầu đều được đồng nhứt thể, nghĩa
là ngày nào cả thiên hạ hiểu rằng tuy tiếng đặt ra để xưng tụng Ðấng Tạo Hóa mỗi nước
mỗi khác, chớ kỳ trung cũng chú ý thờ phượng Ðấng Chúa Tể cả Càn Khôn, Thế Giái, thì
ngày ấy cái chủ nghĩa tín giáo sẽ được thống nhứt (unité des croyances) rồi các sắc nhơn
dân, hễ nuôi nấng một lòng tín ngưỡng, thì mới biết hòa hiệp nhau, tương thân, tương ái,
chung một Tỉ Tổ tức là chung một Cha, nước nầy nhơn đó mà liên hiệp với nước kia,
người xứ kia nhơn đó mà đoàn thể với người xứ nọ, làm cho năm châu chung chợ, bốn
______________________________________________________________________________________
CHƠN LÝ Trang 11 / 39
biển một nhà, hết phân biệt màu da sắc tóc, bỏ nghi kỵ lẫn nhau, thôi xâu xé lẫn nhau, rồi
đời mới được thái bình, trăm họ mới được núp mát dưới bóng cờ bác ái.
Chúng ta nên hằng bữa thắp hương cầu nguyện cho mau đến ngày hạnh phước ấy,
cho cái chủ nghĩa "Tín giáo thống nhứt" đặng mau kết quả. Mà muốn cho cái chủ nghĩa
cao thượng ấy kết quả đặng, duy có Ðại Ðạo Tam Kỳ Phổ Ðộ là cơ quan vận động. Lẽ
ấy cũng do Thiên ý, chớ chúng ta là kẻ phàm phu tục tử khó mong vọng cầu đến việc lớn
lao tày đình như vậy. Tiên Nho có câu: "Nhứt ẩm nhứt trác sự giai tiền định". Một việc
ăn, một việc uống là việc rất nhỏ mọn mà còn có định trước thay, hà huống Ðạo Trời mới
phổ thông vừa đặng bốn năm mà số người tín ngưỡng kể đến hằng triệu. Xét đó thì biết
rằng nếu không phải Thiên ý thì nhơn lực không bao giờ làm đặng.
Vốn từ trước Thánh giáo bị vào tay phàm mà hóa ra phàm giáo, người trong mỗi
đạo chỉ biết tôn trọng vị Giáo chủ của mình mà thôi, vì vậy mà đạo nầy nghịch lẫn đạo
kia, nhơn đó mà gây ra lắm cuộc công kích xung đột lẫn nhau về đường tôn giáo.
Ngày nay Ðại Ðạo Tam Kỳ Phổ Ðộ ra đời là để giải cái nạn tôn giáo ấy. Tôn chỉ
cốt để lo truyền bá cho dân gian biết rằng các tôn giáo đều một gốc mà ra, đều phải tôn
sùng chung có một vì Chúa Tể. Ngài là Ðấng cầm quyền qui các Ðạo gom về một mối,
để dìu dắt cả sanh linh thoát đọa tam đồ, khỏi vòng luân hồi quả báo mà trở về nguyên
bổn, không một ai dưới thế nầy được gọi mình là Giáo chủ. Hội Thánh (le Sacerdoce) lập
ra là sở dĩ buộc cho có chánh thể tôn ti để giữ gìn trật tự mà phổ thông mối Ðạo. Hội
Thánh không phải toàn là người Nam Việt, chẳng luận người nước nào, ai nhiều đạo đức,
quyết chí tu hành đều được gấm ghé vào hàng Chức Sắc (*2). Tưởng chắc trong vài năm
sau đây, trong Hội Thánh sẽ hòa hiệp dân lành các nước rồi xúm nhau chung lo nền đạo,
phổ thông chủ nghĩa "Bác ái" khắp cả toàn cầu.
Nhơn loại biết thương lẫn nhau, biết nhìn nhau là con một cha, ngoài ra cái chủ
nghĩa tối cao tối thượng của Ðại Ðạo Tam Kỳ Phổ Ðộ, vị tất còn biết trông cậy vào đâu
cho đặng?
Ðạo Trời mừng gặp mở lần ba,
Có Ðạo như con ở một nhà.
Trăm họ cùng chung lòng tín ngưỡng,
Ngậm cơm vỗ bụng hưởng an hòa.
(*1) Ðối với người đạo tâm mạnh mẽ, thì không cần phải nhắc nhở, song đó là phần ít.
(*2) Hiện nay trong hàng Chức Sắc đã có người ngoại quốc rồi: Langsa, Trung Huê, Cao Man.
______________________________________________________________________________________
CHƠN LÝ Trang 12 / 39
III. TAM GIÁO HIỆP NHỨT
Khắp hoàn cầu, không nước nào là không có một nền tôn giáo, mà tôn giáo nào
cũng trải qua một cái lịch sử vẻ vang, trong đấy lại tương truyền lắm chuyện huyền bí,
phép tắc lạ thường. Song những việc mầu nhiệm ấy, một phần là có thiệt, phần nhiều tự
tay người trong đạo vẽ viên ra, chủ ý là để nâng cao giá trị đạo mình.
Lược luận về Tam Giáo phát tích ở Trung Nguyên (nước Tàu) tác giả sở dĩ do theo
chơn lý mà giải bày ý tưởng, về việc sâu xa huyền bí, xin để riêng ra.
***
Nước Tàu vẫn có ba mối Ðạo lớn là: Lão Giáo, Thích Giáo, Khổng Giáo gọi là
Tam Giáo. (*1)
Lão Giáo là Ðạo của Ðức Lão Tử truyền ra. Ngài sanh nhằm đời nhà Châu, lối 604
năm (*2) trước Chúa Giê-giu giáng thế.
Khổng Giáo là Ðạo Nho của Ðức Khổng Tử lập thành. Ngài cũng sanh nhằm đời
nhà Châu, lối 551 năm (3*) trước Chúa Giê-giu giáng thế.
Cũng trong đời nhà Châu, Ðức Thích Ca (Thích Già) lại giáng sanh bên Ấn Ðộ lối
560 năm trước Chúa Giê-giu giáng thế. Ngài lập thành Ðạo Phật. Sau lần lần Ðạo Phật
truyền sang Trung Quốc mà đặng thạnh hành là kể từ khi ông Trần Huyền Trang sang Ấn
Ðộ thỉnh kinh Tam Tạng đem về nước mình (629 năm sau Chúa Giê-giu giáng thế).
Sách truyền rằng có một lần Ðức Khổng Tử yết kiến Ðức Lão Tử, khi trở về nói
với chư môn đệ rằng: "Chim thì bay, cá thì lội, thú thì chạy. Mà chim bay có thể bắn, cá
lội có thể câu, thú chạy có thể giăng lưới, duy có con rồng biến hóa theo mây gió thì ta
không biết làm sao mà bắt đặng. Lão Tử tức là con rồng vậy".
Ðó đủ chứng rằng Ðức Lão Tử và Ðức Khổng Tử xưa kia chẳng hề nghịch lẫn
nhau, mà Khổng Tử lại còn khen phục Lão Tử nữa. Sau ra Khổng Giáo và Lão Giáo có
chỗ xung đột lẫn nhau là chỉ tại nơi môn đồ hai bên vì câu "Các thị kỳ đạo" (*4) mà ra
nông nỗi.
Ðức Khổng Tử dạy về Nhơn Ðạo, lấy nhơn luân xã hội làm gốc. Tôn chỉ Ðạo
Khổng là lo chung cho xã hội vậy.
Ðức Lão Tử thì dạy về Tiên Ðạo, chuyên chú về phương pháp hư vô huyền bí, để
cầu cho linh hồn đặng thảnh thơi an tịnh. Tôn chỉ Ðạo Lão là lo phần hồn cho cá nhân
vậy. Ðạo Lão vẫn là cao thâm huyền bí, nên ít người hiểu thấu. Vả lại, trong kinh sách
______________________________________________________________________________________
CHƠN LÝ Trang 13 / 39
Ðạo Lão, nhứt là trong “Ðạo Ðức Kinh" lý luận đều là lời nói bóng dáng, chỗ giấu chỗ
bày, làm cho nhiều người chẳng những học sái hiểu lầm, mà lại còn canh cải vẽ viên ra
nhiều thế, thành ra một mối đạo rất cao thượng ẩn vi phải hóa ra một lối dị đoan thậm là
hoang đàng vô lối.
Nay thử đem Khổng Giáo và Lão Giáo dung hòa lại để bổ khuyết cho nhau, thì hạp
lẽ lắm. Ta nên vừa lo Nhơn Ðạo (Ðạo Khổng) vừa lo Tiên Ðạo (Ðạo Lão) một lượt. Vả
Ðạo Khổng cần phải động, còn Ðạo Lão là Ðạo cần phải tịnh. Phàm con người ở đời, hễ
có động, tất phải có tịnh, ấy là luật quân bình (loi du rythme). Như ban ngày hoạt động
lao thần mệt xác, ban đêm cần phải nghỉ ngơi để tịnh dưỡng tinh thần cùng bồi bổ sức lực
lại mới đặng. Khi phải bôn xu theo đường sinh kế, ta cần phải lấy cang thường luân lý mà
cư xử với đời, lấy lòng đạo đức mà đối đãi với nhơn quần xã hội cho tròn nghĩa vụ làm
người. Ấy là giữ theo Nhơn Ðạo vậy.
Ngoài giờ làm lụng, trong cơn nhàn, khoảng vắng, ta phải biết di dưỡng tinh thần,
cho tâm hồn được thảnh thơi mát mẻ, đoạn cả điều tư lự, không cho một điểm trần diêu
động đến thanh tâm, thì tinh thần mới được yên tịnh mà tiếp lấy thanh khí Tiên Thiên,
tẩm tưới cho linh hồn ngày một được thêm nhẹ nhàng trong sạch, rồi đem cái tình cảm
hóa của ta để ứng hiệp với Trời Ðất. Ấy là giữ theo Tiên Ðạo vậy. Thế thì Nhơn Ðạo
(Ðạo Khổng) và Tiên Ðạo (Ðạo Lão) cần phải nối nhau để bổ khuyết cho nhau mới thuận
theo luật quân bình thiên nhiên đặng.
Bây giờ ta thử xem coi Ðạo Lão và Ðạo Phật có chỗ điều hòa nhau được chăng?
Lúc Ðạo Phật mới bắt đầu phổ thông qua Trung Quốc, thì nhà Phật cũng nương theo Ðạo
Lão mà truyền bá tôn chỉ đạo mình. Cũng nhờ tư tưởng và triết lý Ðạo Phật và Ðạo Lão
có nhiều chỗ phù hạp nhau lắm, nên các nhà truyền Ðạo Phật mới mượn những danh từ
của Ðạo Lão để diễn giải tư tưởng mới của đạo mình. Nhờ vậy Ðạo Phật mới được người
Tàu hoan nghinh mà sự phổ thông cũng khỏi gặp lắm điều trắc trở. Thế thì Ðạo Lão và
Ðạo Phật đã điều hòa nhau từ khi Ðạo Phật mới bắt đầu truyền sang Trung Quốc vậy. Cứ
theo mấy cớ bày giãi trước đây, thì Tam Giáo hiệp nhứt là lẽ phải vậy. Ðó là một lẽ.
Còn một lẽ thứ hai như vầy:
Theo lẽ tuần hườn, việc chi cũng có đầu, có giữa rồi mới tới khúc đuôi là chỗ cuối
cùng. Ðến chỗ cuối cùng rồi, tất phải trở lại đầu, gọi là qui nguyên. Ðại Ðạo mở ra đều do
theo ngươn hội, mỗi ngươn hội đều có Tam Giáo cả.
Như Thượng ngươn nhằm Tý hội, thì có Nhứt Kỳ Phổ Ðộ. Nhơn Ðạo thì có Bàn
Cổ mở mang, Tiên Ðạo có Hồng Quân Lão Tổ lập thành, Phật Ðạo có Nhiên Ðăng truyền
giáo.
Qua Trung ngươn nhằm Sửu hội, thì có Nhị Kỳ Phổ Ðộ. Lập Nhơn Ðạo có Khổng
Tử, Tiên Ðạo có Lão Tử, Phật Ðạo có Thích Ca.
Nay đến kỳ Hạ ngươn nhằm Dần hội, nên Ðức Thượng Ðế lựa năm Bính Dần,
dùng huyền diệu cơ bút lập thành Ðại Ðạo Tam Kỳ Phổ Ðộ. Vì Hạ ngươn là ngươn chót,
ngươn cuối cùng, nên Ðại Ðạo phải qui nguyên theo lẽ tuần hườn. Vì vậy mới có cái chủ
______________________________________________________________________________________
CHƠN LÝ Trang 14 / 39
nghĩa Tam Giáo qui nhứt. Tam Giáo bằng không qui nhứt, thì thế nào qui nguyên cho
đặng? Ðó là lẽ thứ hai.
Vả, nước Nam ta chịu ảnh hưởng Tam Giáo rất lâu đời, mối chánh truyền đã biến
đổi.
Cho nên mục đích Ðại Ðạo Tam Kỳ Phổ Ðộ là cốt để qui Tam Giáo hiệp nhứt,
sửa đổi tôn chỉ lại cho quang minh chánh đại, cho thích hạp thời nghi, rồi gióng trống
"Lôi Âm" rung chuông "Bạch Ngọc", thức tỉnh nhơn sanh khử ám hồi minh mà theo
đường đạo đức.
Từ đây nước Nam ta mới có một nền Chánh giáo rất long trọng mà tự chúng ta nhờ
Ðức Thượng Ðế dìu dắt lập thành. Ấy là một điều đại hạnh phúc cho nòi giống Việt Nam
ta, lại cũng là một điều đại vinh diệu xưa nay ta chưa từng thấy vậy. Ðại Ðạo Tam Kỳ
Phổ Ðộ sẵn lòng hoan nghinh cả tín đồ trong các giáo, đánh đổ cái quan niệm "Các thị kỳ
đạo" rồi dùng một mối "Tín ngưỡng độc nhứt" mà buộc nhau cho ngày một khắng khít,
để cùng nhau chung thờ một Thần Chơn lý mà thôi.
Ấy ai là người mộ đạo tu hành, xin bỏ dạ hiềm nghi, dứt lòng đố kỵ, hãy đồng tâm
hiệp lực, sớt nhọc chia lo để hoằng hóa mối Ðạo Trời, thả chiếc thuyền từ vớt muôn triệu
sanh linh đương nổi chìm trong khổ hải. Ấy là công quả rất lớn lao trong thời kỳ khai đạo
lần ba nầy vậy.
(*1) Xin luận về Tam Giáo về Nhị Kỳ Phổ Ðộ mà thôi. Còn Nhứt Kỳ Phổ Ðộ thì lâu đời lắm, xin miễn luận.
(*2)&(*3) Do theo các nhà bác học Âu Châu khảo cứu.
(*4) Ai cũng lấy Ðạo mình làm phải, làm chánh.
______________________________________________________________________________________
CHƠN LÝ Trang 15 / 39
IV. TU HÀNH
A. Ðiều cần ích nhãn tiền của việc tu hành
o Ảnh hưuởng cho gia đình đức dục.
o Ảnh hưởng cho xã hội giáo dục.
B. Tu hành vẫn có cái công hiệu phủ ủy lòng người
Nghe đến tiếng Tu, có người dường như sợ sệt, vì cho là một việc rất khó khăn khổ
hạnh xưa nay chỉ để cho một ít người có căn phần riêng chi đó mới mong làm đặng. Cái
quan niệm sai lầm như vậy làm cho nhiều người thuở nay đã có tu chút ít rồi mà tự mình
không dè đến, lại còn có kẻ bao giờ đã thi thố lắm điều tội lỗi mà chẳng biết tìm phương
tự hối. Nếu biết nghĩa lý chữ Tu rộng ra là dẹp hết tánh tình hư xấu, giồi lòng sửa nết để
dọn mình cho trong sạch mà chuyên bề đạo đức, chớ không có điều chi buộc mình phải
chịu khó khăn khổ hạnh, thì thiếu chi người dám tu, mà rồi kẻ dữ nào đã còn chút lương
tâm tất có ngày cũng biết hồi tâm hướng thiện mà trở lại đường ngay nẻo thẳng.
Tu không buộc mình phải cạo đầu, mặc áo già, ở chùa tụng kinh gõ mõ mà đếm
công. Quí chăng tại tâm đó thôi. Phương ngôn có câu: “Nhứt tu thị, nhị tu sơn”. Thế thì
tu tại gia mà giữ tròn bổn phận, công phu còn hơn kẻ tu núi, là vì ở chốn phiền ba náo
nhiệt mà đạo tâm bền vững chẳng nhiễm bợn nhơ, không khác nào hoa sen mọc chốn ô
nê mà vượt lên tốt tươi trong sạch. Tu tại gia, mỗi người vừa lo được Nhơn đạo vừa lo
được Thiên đạo, cũng bươn chải làm ăn như thường, song khác hơn người thường là
ngoài giờ làm lụng, thay vì chơi bời vô ích, cờ bạc rượu trà, vân vân, cho tốn tiền sanh
bịnh, mình lại để giờ rảnh ấy mà trau giồi đức hạnh, quan sát việc hành động mỗi ngày lại
coi phải quấy thể nào, như lỡ có làm điều chi mình nghĩ ra biết là quấy, thì phải ăn năn
sám hối hầu ngày sau đừng tái phạm. Trong giờ rảnh lại cần phải để lòng thanh tịnh mà
di dưỡng tinh thần cùng tưởng Trời niệm Phật. Hễ thành tâm tưởng niệm, tự nhiên có
Trời Phật độ cho, vì Trời Phật tại tâm chớ chẳng đâu xa.
Vẫn biết rằng tu hành còn có nhiều bực cao thượng khó khăn hơn nữa, nhưng đó là
bực thượng thừa, chớ tu tại gia mà giữ cho tròn bổn phận một người cư sĩ, một bực tín đồ,
tưởng lại người có lòng mộ đạo ai ai cũng tu được cả.
A. ÐIỀU CẦN ÍCH NHÃN TIỀN CỦA VIỆC TU HÀNH
Do theo sách luân lý học thuyết của các bực hiền triết Âu Châu làm ra, ta có thể
đoán rằng những bực ấy thường đã nghiên cứu về luân lý một cách rất quang minh tiêm
tất chẳng kém gì các bực tiên nho của ta. Thế thì văn minh Âu Châu, phần nhiều dầu cho
xu hướng về vật chất, chớ cũng chú trọng về tinh thần vậy. Ngặt vì người mình hấp thọ
cái văn minh ấy chỉ mới cảm cái hình thức (vật chất) mà thôi, chớ chưa thâm thúy đến
______________________________________________________________________________________
CHƠN LÝ Trang 16 / 39
chỗ tinh thần. Cho nên từ khi người Nam ta bỏ cựu theo tân mà được ảnh hưởng chút ít
văn minh hình thức của Âu Châu, thì nền luân lý nước nhà xem chừng có chiều nghiêng
đổ. Thành thử trong cuộc hành vi sanh hoạt, trăm ngàn hạnh phúc đều đắm đắm, đuối
đuối cho mảnh hình hài xác thịt mà quên hẳn tinh thần, thậm chí có người chỉ chuyên tâm
về đường vật chất mà thôi, cho rằng Thiên đường, Ðịa ngục là câu chuyện hoang đàng;
thất phách, tam hồn là lời bịa đặt. Vì vậy nên hãy nghe đến việc "tụ khí ngưng thần",
"trúc cơ luyện kỷ” lại nhăn mặt trề môi, cho là lối dị đoan mê hoặc. Song đó là quyền tư
tưởng tự do của mọi người, chúng ta chỉ có thở than mà không nên biện bác. Thế tình đã
vậy, chúng ta buộc phải giải bày cái công dụng cần ích nhãn tiền của việc tu hành cho rõ
ràng đích xác, thế nào cho kẻ thiên lệch về phương vật chất cũng chẳng còn có lời chi
chối cãi. Vả chăng, luật Ðạo buộc phải ăn chay giữ giái, lánh dữ theo lành. Giữ đặng vậy
ắt thấy cái lợi nhãn tiền không sai. Ăn chay đã ít tốn kém, lại tiếp dưỡng thân mình tráng
kiện (*1). Không tà dâm thì khỏi hao kém tinh thần, khỏi lo bịnh phong tình hoa liễu,
trong gia đình khỏi xảy ra cái thảm trạng ghen tương để bỏ, ngoài xã hội lại khỏi gây thù
kết oán. Không tham lam trộm cướp khỏi lo tù tội buộc ràng, không rượu thịt khỏi lo hao
kém tinh thần, say sưa vất vả, không vọng ngữ, kẻ chuộng người tin, không cờ bạc khỏi
lo thua kém, làm lành đòi bữa an tâm, gây dữ ghe ngày mang hại, vân vân… Ðó là lẽ cố
nhiên ai ai cũng biết lựa phải giải luận dông dài.
Nhà luân lý, nhà giáo dục đều nhắc nhở hằng ngày, chẳng lựa chi đến nhà tôn giáo.
Song le, nhà luân lý chẳng qua là chuyên về lý thuyết (théorie), nghĩa là chỉ bày cách
thức phải làm, làm sao gọi là lành, là dữ, là phải, là quấy cho hoàn toàn nhơn cách ở đời,
tức là định cái phương châm cho nhà giáo dục noi theo đó mà hóa dân, chớ sao bằng nhà
tôn giáo là người đứng ra thiệt hành cái phương châm ấy để làm tiêu chuẩn, làm gương
sống (exemple vivant) cho mọi người bắt chước. Muốn tỉ thí cho dễ hiểu hơn, thì nhà
luân lý chẳng khác nào người vẽ họa đồ nhà (architecte), nhà giáo dục ví như anh thầu
khoán (entrepreneur) do họa đồ mà chỉ vẽ cho dân thợ làm theo, còn nhà tôn giáo chính là
dân thợ (ouvriers) đứng ra cất nhà vậy. Luân lý học, giáo dục học là lý thuyết, tôn giáo
tức là thiệt hành (pratique). Tóm lại, đối với nền đạo đức, nhà tôn giáo vẫn có cái công
hiệu trổi hơn nhà luân lý, nhà giáo dục bội phần.
Trước kia đã cho rằng nhà tôn giáo là một cái gương sống cho mọi người bắt chước,
vậy tưởng cũng nên bàn giải coi nền tôn giáo hiện kim tức là Ðại Ðạo Tam Kỳ Phổ Ðộ
vì đâu mà có cái ảnh hưởng rất long trọng ấy cho gia đình đức dục và cho xã hội đức dục.
1. ẢNH HƯỞNG CHO GIA ÐÌNH ÐỨC DỤC.
Vả, gia đình là nơi bắt đầu đào tạo nhơn cách. Trẻ con ví như hột giống, gia đình là
vuông đất để gieo giống xuống, đức dục là phân tốt nhờ đó mà hột giống nảy nứt ra cây
tươi, nhánh tốt. Mà ai là người đứng ra vun quén cho cây nhánh tốt tươi? Tức là kẻ làm
cha mẹ trong gia đình đó vậy. Song kẻ ấy phần nhiều là không đủ tư cách nhà đức dục,
tuy cũng có người hoàn toàn phẩm hạnh, học thức cao sâu, song lại bị gia đạo buộc ràng,
bôn xu theo thế sự mà lập chước sanh nhai, cho đủ cơm ngày hai buổi theo cái thời đợi
gạo châu củi quế nầy, không mấy người là rảnh rang để chăm nom un đúc tánh tình con
trẻ, thành ra cái "đèn đức dục" nơi gia đình bảo sao không hết dầu mà sắp tắt? Ðương hồi
ngọn đèn ấy bựt lên lần chót hầu sắp sửa tắt đi, may đâu lại có người đem dầu đến châm
______________________________________________________________________________________
CHƠN LÝ Trang 17 / 39
thêm, đoạn khêu cao ngọn lên cho sáng tỏ. Dầu ấy ở đâu? Người châm dầu, khêu ngọn ấy
là ai? Dầu ấy tức là Ðại Ðạo Tam Kỳ Phổ Ðộ, người ấy tức là chư Chức Sắc đã lãnh cái
trách nhậm phổ thông nền Ðạo vậy.
Như vợ chồng có Ðạo mà giữ cho đúng đắn, thì đối với nhau vẫn có hai cái tình
mật thiết, một là vì tình đồng tịch, đồng sàng, hai là vì chỗ đồng thuyền đồng đạo. Rồi hai
đàng làm mô phạm lẫn cho nhau trong đường đạo, chồng có ý phui pha, sẵn có vợ nhắc
chừng, vợ có dạ lãng xao, sẵn có chồng kềm thúc. Cái lạc thú trong gia đình nhơn đó mà
được vững vàng miên viễn.
Phàm con cái đều là bắt chước theo cha mẹ trong việc cử chỉ hành vi. Cha mẹ đã có
ít nhiều đạo đức, đã biết tu tâm dưỡng tánh, lẽ nào con cái không nhờ đó mà cảm hóa
theo? Ấy vậy, hễ cha mẹ có đạo mà giữ cho chính chắn, thì tức là "gương sống" để cho
trẻ con bắt chước vậy. Phương chi, mỗi lần cúng kiếng, toàn là tụng niệm kinh lành, lần
lần nhựt nhu, nguyệt nhiễm, bảo sao con cái không cảm lấy điều lành mà trở nên lương
thiện?
Lại nữa, người giữ Ðạo chính chắn trong nhà không bao giờ có những pho truyện
phong tình hoa nguyệt, có chăng là chỉ có sách đạo, kinh lành vậy thôi, trẻ con đã khỏi
cái nạn "dâm thơ dục quấy" mà lại còn được cảm giác lấy lời hay lẽ phải, ý tốt, gương
lành. Tôn giáo có ảnh hưởng cho gia đình giáo dục cốt yếu là vì thế.
2. ẢNH HƯỞNG CHO XÃ HỘI GIÁO DỤC.
Thử xem trong một nhà trường kia, khi chưa tới giờ học, trừ ra một vài trò siêng
năng biết lo ôn bài đọc sách, còn bao nhiêu thì là chơi bời, giỡn trửng nào là đánh nhà,
bắn đạn, nào là rượt bắt lẫn nhau, nói năng cười cợt, không lo chi đến việc học hành, mà
hễ nghe trống học giống lên, cả thảy đều bỏ hết việc chơi, im lìm lẳng lặng, xúm nhau
sắp hàng, lớp nào theo lớp nấy đặng có vô mà học. Quí hóa thay mấy hồi trống lịnh! Chỉ
có ít tiếng "thùng thùng …” mà đủ nhắc nhở cho cả học sanh biết lo tròn bổn phận.
Bây giờ ta lại xem qua cái "nhà trường xã hội". Trừ ra có một ít người đạo đức
chuyên việc tu thân, còn bao nhiêu thì là đua chen theo đường sanh kế, nào là trục lợi đồ
danh, nào là giành giựt lẫn nhau mạnh hơn yếu sút, không mấy ai nghĩ đến tiền căn cựu
vị phòng lo việc tu hành. Nếu có tiếng trống chi để cảnh tỉnh lòng người, tưởng lại chẳng
mấy ai mà không biết hồi tâm hướng thiện. Tiếng trống ấy tức là tiếng trống Ðại Ðạo
Tam Kỳ Phổ Ðộ vậy. Mới gióng lên vừa đặng bốn năm mà công hiệu rất nên to tát, cảm
hóa ngót một triệu con người biết truy hối mà lo bề đạo đức. Số một triệu người ấy (*2)
vừa làm mô phạm lẫn nhau vừa treo lên một cái gương sống để soi