VĨNH NGUYÊN TỰ: DI TÍCH LỊCH SỬ CỦA ĐẠO CAO ĐÀI

Cập nhật 2025-06-30 19:57:42

(Cần Giuộc, Long An ngày 28/6/2025 – Tường thuật, sưu tầm và hình ảnh của Caodai TV)
 
Nhân dịp kỷ niệm 100 năm ngày Hoằng Khai Đại Đạo Tam Kỳ Phổ Độ, chúng tôi xin trân trọng giới thiệu với quý độc giả về Thánh thất Cao Đài Vĩnh Nguyên Tự - một trong những di tích buổi sơ khai của Đạo Cao Đài.
 
Vĩnh Nguyên Tự - được Đức Như Ý Đạo Thoàn Chơn Nhơn, pháp danh là Thái Lão Sư Lê Đạo Long (tên thật là Lê Văn Tiểng) – xây dựng vào năm 1908 tại Làng Long An, Huyện Cần Giuộc, Tỉnh Chợ Lớn (về sau đổi lại thuộc Tỉnh Long An, và đến ngày 1/7/2025 thì đổi lại thuộc tỉnh Tây Ninh).
 
Theo sử sách ghi lại, ngôi Vĩnh Nguyên Tự được xây dựng trên thửa đất gần 10,000 m2, có nền cao, cột gỗ quý, mái ngói âm dương, mặt tiền hướng chánh Nam. Thuở ban sơ, Vĩnh Nguyên Tự là nơi tu hành theo luật tu của Chi Minh Đường và Minh Sư Đạo.
 
Vĩnh Nguyên Tự là một trong những cái nôi đầu tiên, góp phần vào việc hình thành và phát triển của Đạo Cao Đài. Tại đây, đã diễn ra rất nhiều đàn cơ quan trọng mà Ngài Lê Văn Trung (Đức Quyền Giáo Tông) và Ngài Lê Văn Lịch (con của Thái Lão Sư Lê Đạo Long) được Đức Chí Tôn, Thiên Ân phẩm Thượng Đầu Sư và Ngọc Đầu Sư trong một đàn cơ tại ngôi chùa này.
 
Trãi qua nhiều biến động của xã hội và lịch sử, ngôi Vĩnh Nguyên Tự được xây dựng bằng vật liệu tự nhiên thuở ban đầu, đã được trùng tu vững chắc vào năm 1973 và được giữ nguyên hiện trạng cho đế ngày nay.
 
Trong khuôn viên của Thánh thất Vĩnh Nguyên Tự, ngoài ngôi chánh điện nằm ở trung tâm của thửa đất, còn có các công trình phụ trợ và các tháp mộ của Ngài Thái Lão Sư Lê Đạo Long, và ngôi mộ cải táng của Đức Ngọc Chưởng Pháp Trần Văn Thụ.
 
Trong ngôi chánh điện có thờ Thiên Nhãn, Long vị của ba Đấng Giáo chủ Tam giáo, và Long vị của Đức Thái Bạch Kim Tinh (Đức Lý Đại Tiên). Hai bên chánh điện thờ Đức Từ Hàng Phổ Tế (Đức Quan Âm Bồ Tát) và Đức Sùng Viễn Chánh (Đức Quan Thánh Đế Quân). Đối diện với Thánh Tượng Thiên Nhãn, nơi vách ngoài là nơi thờ Thánh tượng chữ Khí. Trong hậu điện là bàn thờ linh vị của: Đức Như Ý Đạo Thoàn Chơn Nhơn Lê Đạo Long, Đức Ngọc Chưởng Pháp Trần Văn Thụ, và Ngài Đầu Sư Ngọc Lịch Nguyệt.
 
Nội dung khắc trên bia ngay trước ngôi chánh điện ghi:
 
“...Đức Thái Lão Sư Lê Đạo Long tu chứng tại tiền, linh thông mà biết được việc thế, cơ Trời, nên để lời tiên tri rằng: Vĩnh Nguyên Tự là nơi Thập nhị Khai Thiên làm cơ quan của Đại Đạo Tam Kỳ Phổ Độ, hoằng dương chánh pháp chơn truyền, sau trong môn đệ có người ra thọ nhận Thiên ân mà mở cơ Tận độ.
Vào năm Bính Dần (1926), chư quí ông Lê Văn Trung, Cao Quỳnh Cư, Phạm Công Tắc, đến Vĩnh Nguyên Tự cầu cơ, Đức Cao Đài Ngọc Đế giảng dạy Đạo và cho biết Thái Lão Sư Lê Đạo Long là Như Ý Đạo Thoàn Chơn Nhơn, cùng với Thái Ất Chơn Nhơn đang phổ độ Tây phương.
Đức Cao Đài cho vời Đức Như Ý về giáng cơ. Ngài dạy người học trò lớn của Ngài là Trần Đạo Minh và con của Ngài là Lê Văn Lịch theo lời tiên tri của Ngài mà tòng giáo sang Tam Kỳ Phổ Độ, thọ nhận Thiên ân hoằng dương chánh pháp.
Đức Cao Đài Ngọc Đế phong Trần Đạo Minh làm Ngọc Chưởng Pháp, Lê Văn Lịch làm Ngọc Đầu Sư.
Đức Cao Đài dạy: nơi Vĩnh Nguyên Tự, Thầy vận chuyển cho Trung, Lịch, Cư, Tắc, đến để luận bàn hoạch định, cùng nhận lãnh thi hành một sứ mạng mà Thầy đã giao phó. Đó là sứ mạng khai minh Đại Đạo Tam Kỳ Phổ Độ, lập thành trụ tướng cùng những kinh điển, quyền pháp, Đạo luật, để hoằng dương chánh pháp, phổ độ nhơn sanh.
Vĩnh Nguyên Tự trở thành di tích lịch sử của Đại Đạo Tam Kỳ Phổ Độ…”
 
Do đó, người tín đồ Cao Đài, nếu có dịp, cũng nên đi tham quan Thánh Thất Vĩnh Nguyên Tự để biết thêm một di tích lịch sử của Đạo.
 
Xin trích bài Thánh giáo số 09, trong Thánh Ngôn Hiệp Tuyển quyển 1, dạy về sắp Thiên phong và lập thệ.
 
[Trích]
Vĩnh Nguyên Tự
Ngày 22 et 23 Avril 1926  (âl. 11 và 12 tháng 3 năm Bính Dần)
 
NGỌC HOÀNG THƯỢNG ÐẾ VIẾT CAO ÐÀI GIÁO ÐẠO NAM PHƯƠNG
 
Ba con nghe dạy cuộc sắp Thiên Phong.
Các con vui không?
Ðạo phát trễ một ngày là một ngày hại nhơn sanh.
 
Thầy nôn nóng nhưng mà Thiên Cơ chẳng nghịch đặng, nên phổ thông trắc trở, vậy thì ba con (Trung, Cư, Tắc) cứ sắp đặt thế nầy:
 
Trung nghe: Con dời bài vị của Lý Bạch để dưới tượng Thầy, con dọn dẹp trong hết, để một cái ghế kế một bên trang thờ, rồi để lên trên một cái ghế lớn, đặng làm ngôi Giáo Tông; ba cái nữa để sắp hàng theo ở dưới đặng làm ngôi cho ba vị Ðầu Sư. Con phải bao bốn cái ghế ấy cho tinh khiết. Con đem Thiên Phục Giáo Tông mà để nơi ghế ở trên. Còn bộ Thượng Thanh thì để giữa, bộ Ngọc Thanh bên hữu, còn ghế bên tả, con phải viết một miếng giấy để chữ "THÁI" cho lớn mà dán lên chỗ dựa.
 
Ngay chỗ bàn ngự của Thầy, phải để một cái ghế trước ngôi ba vị Ðầu Sư, vọng một bài vị, biểu Lịch viết như vầy: "CỬU THIÊN CẢM ỨNG LÔI THINH PHỔ HÓA THIÊN TÔN", lại vẽ thêm một lá bùa "KIM QUANG TIÊN", để thòng ngay giữa, ai ai ngó vào cũng đều thấy đặng.
 
Bàn Thầy giáng cơ thì để trước bàn vọng Ngũ Lôi, khi giáng cơ rồi, thì dời đi cho trống chỗ, đặng nhị Ðầu Sư quì mà thề.
 
Con lại để thêm một cái bàn giữa bên cửa sổ, đằng trước ngó vô.
 
Cư, nghe dặn: Con biểu Tắc tắm rửa sạch sẽ (xông hương cho nó) biểu nó lựa một bộ quần áo tây cho sạch sẽ, ăn mặc như thường, đội nón...
 
Cười ...
 
Ðáng lẽ nó phải sắm khôi, giáp như hát bội, mà mắc nó nghèo, Thầy không biểu.
 
Bắt nó lên đứng trên, ngó mặt ngay vô ngôi Giáo Tông, lấy chín tấc vải điều đắp mặt nó lại.
 
Lịch, con viết một lá phù (Giáng Ma Xử) đưa cho nó cầm.
 
Các con, phải cho thanh tịnh kể từ ngày nay, diệt tận phàm tâm chớ nhơ một điểm, thì ngày ấy thề mới đặng.
 
Cư, khi đem ba bộ Thiên Phục đến vọng trên ba cái ngai thì con phải chấp bút bằng nhang như mọi lần, đặng Thầy trấn Thần trong ba bộ Thiên Phục, và ba ngai ấy, rồi mới kêu hai vị Ðầu Sư đến quì trước Bửu Ngai của nó, đặng Thầy vẽ phù vào mình. Khi hai vị Ðầu Sư vái rồi, phải đến trước Bửu Ðiện Thầy mà làm lễ (mười hai lạy), và trước ngôi Giáo Tông (chìn lạy), rồi biểu Giảng xướng lên: "Phục vị", thì hai người leo lên ngồi.
 
Cả thảy môn đệ phân làm ba ban, đều quì xuống, biểu Tắc leo lên bàn, con chấp bút bằng nhang, đến bàn Ngũ Lôi đặng Thầy triệu nó đến, rồi mới tới trước mặt Tắc, đặng Thầy trục xuất Chơn Thần nó ra, nhớ biểu Hậu, Ðức xông hương tay của chúng nó, như em có giựt mình té thì đỡ.
 
Rồi biểu hai vị Ðầu Sư xuống ngai, quì đến trước mặt Ngũ Lôi, hai tay chấp trên đầu, quì ngay bùa Kim Quang Tiên mà thề như vầy:
 
" Tôi là Lê Văn Trung tự Thiên Ân là Thượng Trung Nhựt và Lê Văn Lịch tự Thiên Ân là Ngọc Lịch Nguyệt, thề Hoàng Thiên, Hậu Thổ, trước Bửu Pháp Ngũ Lôi rằng làm trọn Thiên Ðạo mà dìu dắt cả mấy em chúng tôi đều là môn đệ của Cao Ðài Ngọc Ðế; nhứt nhứt do lịnh Thầy phân định chẳng dám chuyên quyền mà lập thành tả đạo; như ngày sau hữu tội thì thề có Ngũ Lôi tru diệt."
 
Ðến bàn Vi Hộ Pháp cũng quì xuống, vái y vậy, điều câu sau thì như vầy:
 
"Như ngày sau phạm Thiên Ðiều thề có Hộ Pháp đọa Tam Ðồ bất năng thoát tục."
 
Rồi mới biểu Giảng xướng lại nữa "Phục vị", thì nhị Ðầu Sư trở lại ngồi trên ngai. Chư môn đệ đều đến lạy mỗi người hai lạy.
 
Tới phiên các môn đệ, từ người đến bàn Ngũ Lôi mà thề rằng:
 
" Tên gì?... Họ gì?... Thề rằng: Từ đây biết một Ðạo Cao Ðài Ngọc Ðế, chẳng đổi dạ đổi lòng, hiệp đồng chư môn đệ, gìn luật lệ Cao Ðài, như sau có lòng hai thì Thiên tru Ðịa lục."
 
Tới trước bàn Hộ Pháp cũng thề như vậy, rồi mới đến lạy nhị Ðầu Sư.
 
[Hết trích]
 
Bài thánh giáo số 27, Thánh Ngôn Hiệp Tuyển 1, dạy Chư môn đồ Minh Đường về việc tu bất thành vì Đạo bế.
 
[Trích]
… Vĩnh Nguyên Tự (Cần Giuộc)
Samedi 21 Août 1926 (14 tháng 7 Bính Dần)
 
NGỌC HOÀNG THƯỢNG ÐẾ VIẾT CAO ÐÀI GIÁO ÐẠO NAM PHƯƠNG
 
Lịch! Mời cả chư môn đệ Minh Ðường của Thầy ra nghe dạy... Cười...
 
Các con đừng tưởng quấy rằng: Vì chia phái mà riêng đạo. Thầy rán cắt nghĩa cho các con nghe.
 
Nguyên từ buổi bế đạo, tuy Chánh Pháp ra cũ mặc dầu, chớ kỳ trung thọ đắc kỳ truyền. Luật lệ tuy cũ chớ Đạo vẫn như nhiên. Do công đức mà đắc đạo cùng chăng. Nhưng mà có một điều là Ngọc Hư Cung bác luật, Lôi Âm Tự phá cổ, nên tu nhiều mà thành ít.
 
Vì vậy cho nên các con coi thử lại, từ hai ngàn năm nay, bên Á Ðông nầy đã đặng bao nhiêu Tiên, Phật. Các con duy biết có một mình Huệ Mạng Kim Tiên mà thôi.
 
[Hết trích]