PHƯƠNG CHÂM HÀNH ĐẠO

Cập nhật 2012-02-15 10:17:13

ÐẠI ÐẠO TAM KỲ PHỔ ÐỘ
TÒA THÁNH TÂY NINH
PHƯƠNG CHÂM HÀNH ÐẠO
Soạn Giả
Thượng Ðầu Sư LÊ VĂN TRUNG
Hội Thánh Giữ Bản Quyền
Giấy xuất bản Số 2909 BTT/BC3/XB ngày 12-10-1964
Tái bản năm Canh Tuất – 1970
________________________________________________________________________
Phương Châm Hành Ðạo Trang 2 / 22


________________________________________________________________________
Phương Châm Hành Ðạo Trang 3 / 22
M–C L–C
 Lời Tựa
I. Giữ Ðạo
1. Làm lành lánh dữ
2. Trau giồi đức hạnh
 Khiêm nhượng
 Nhẫn nại
 Thuận hòa
 Kiên tâm
 Thanh liêm
II. Người trong Ðạo phải đối đãi nhau thế nào?
1. Tín Ðồ
2. Chức sắc
III. Ðối với người ngoại giáo
1. Ðối với quan viên chức sắc
2. Ðối với người khác Ðạo
3. Ðối với người nghịch Ðạo
IV. Phổ thông Thiên Ðạo
1. Thuyết Ðạo
2. Khai Ðàn
V. Phải năng hầu đàn
VI. Ðiều lệ hầu đàn
VII. Phải xem sách kinh, luật lệ
VIII. Phải xem sách kinh thế nào?
________________________________________________________________________
Phương Châm Hành Ðạo Trang 4 / 22
________________________________________________________________________
Phương Châm Hành Ðạo Trang 5 / 22
Lời Tựa
Thiết tưởng, Ðạo nào cũng dạy lánh dữ làm lành. Chủ nghĩa mỗi Tôn Giáo thảy
đều cao thượng; nhưng nếu người hành đạo không noi theo một phương châm nào cho
chánh đáng, tức nhiên Ðạo cao thượng cũng hóa ra như hèn, rồi lâu đời mối Chánh
Truyền phải mất.
Tôi vốn không từng viết văn, lẽ không nên làm sách, song nghĩ vì trách nhiệm nặng
nề, sở dĩ phải lược lục quyển sách "Phương Châm Hành Ðạo" nầy, mong rằng chư
Ðạo Hữu lưỡng phái nam nữ nhứt tâm hành sự theo qui tắc chuẩn thằng, thì rất may mắn
cho nền Ðạo, mà lại cũng là một điều hân hạnh cho tôi lắm đó.
Mỗi lần thuyết Ðạo, chư vị Thiên Phong cũng nên đem quyển sách nầy ra đọc cho
chư Tín Ðồ nghe, rồi giải rành thêm cho mọi người dễ hiểu.
Tòa Thánh Tây Ninh, ngày 29 tháng 2 năm Mậu Thìn
Thượng Ðầu Sư
LÊ VĂN TRUNG
________________________________________________________________________
Phương Châm Hành Ðạo Trang 6 / 22
________________________________________________________________________
Phương Châm Hành Ðạo Trang 7 / 22
I. GIỮ ÐẠO
Kỳ Hạ Ngươn nầy là buổi hiệp Tam Giáo làm một, hầu đem về căn bổn cho hiệp lẽ
tuần hườn; Ðức Ngọc Hoàng Thượng Ðế lại dùng huyền diệu Tiên Gia giáng cơ giáo
Ðạo; thế thì chúng ta lấy làm hữu duyên hữu phước mới sanh nhằm đời Ðạo mở; muôn
năm ngàn kiếp mới có một lần như vậy; nếu chẳng thành tâm tu niệm thì rất uổng cho cơ
hội nầy lắm đó.
Nhập môn cầu Ðạo là để làm lành lánh dữ, dưỡng tánh tu tâm, lập công bồi đức,
cứu độ nhơn sanh; chớ không phải vào Ðạo để lấy phần đông, rồi kết phe lập đảng mà ỷ
chúng hiếp cô cùng là xui mưu làm loạn. Kẻ vào Ðạo chỉ mưu việc quấy như vậy là
muốn gây rối cho nền Ðạo, tức là kẻ nghịch Ðạo đó.
Muốn giữ Ðạo cho trọn bổn phận, người nhập môn rồi phải do theo "Tân Luật" lại
cần phải "Làm lành lánh dữ" và "Trau giồi đức hạnh".
1. Làm lành lánh dữ
Có người thuở nay không làm điều chi bất nhơn thất đức, cứ một lòng ở thật ăn
ngay; như vậy có đủ gọi là làm lành lánh dữ không? Không đâu. Người ấy chỉ biết có
lánh dữ mà thôi, nghĩa là chỉ có biết giữ mực công bình (1) của nhơn loại vậy thôi, chớ
chưa có chi gọi là làm lành.
Muốn trọn hai chữ làm lành, phải cứu nhân độ thế. Kinh Phật dạy cứu nhân độ thế
mà không giải rành là sao, thành ra nhiều vị tu hành không để ý đến, chỉ biết có một phép
từ bi thanh tịnh là gốc.
Sao gọi là cứu nhân độ thế? Cứu nhân độ thế là cứu cấp những người đương hồi
khốn cùng, hoạn nạn; ai đói mình cho ăn, ai khát mình cho uống, ai đau mình giúp thuốc,
ai thác mình thí hòm, ai lạc nẻo mình chỉ đường, ai buồn rầu mình an ủi, ai kiện thưa
tranh đấu mình kiếm chước giải hòa; bắt cầu bồi lộ cho hành khách tiện bề qua lại; in thí
kinh điển, thiên thơ cho mọi người coi theo hầu cải tà qui chánh, vân vân... Vậy mới gọi
là cứu nhân độ thế, song chẳng nên bất cập mà cũng đừng cho thái quá. Bất cập là khi
nào mình giúp người không trọn, có trước không sau, làm cho người sau rồi cũng phải
khốn cùng, hoạn nạn như trước vậy. Thái quá là đụng ai giúp nấy, không xét coi kẻ ấy
đáng giúp hay chăng, vì ở đời lắm người giả dối, quanh năm chỉ ỷ lại nơi người nhơn
thiện mà no cơm ấm áo. Giúp đỡ cho những kẻ ấy tức là giúp cho họ dễ bề làm biếng,
tiện thế ở không, tức là chưởng ác cho họ vậy. Vả lại, cứu nhơn độ thế phải tùy dươn tùy
sức mới đặng; giàu cứu độ theo phận giàu, nghèo cứu độ theo phận nghèo; theo lời giải
trước kia, cứu nhơn độ thế có nhiều cách; có của thí của, không của thí công; của công ví
đặng thiệt lòng, cân lại cũng đồng âm chất.
________________________________________________________________________
Phương Châm Hành Ðạo Trang 8 / 22
(1) Mực công bình chỉ gom vô câu nầy: "Việc chi mình không muốn, thì mình
chẳng nên làm việc ấy cho ai". Bao giờ mình lại muốn việc dữ đến cho mình;
thế thì mình chẳng nên làm dữ với ai cả. Cho nên không làm dữ là giữ mực công
bình vậy thôi, chớ chưa đủ gọi là lành đặng.
2. Trau giồi đức hạnh
Người giữ Ðạo không những làm lành lánh dữ là đủ, lại còn phải trau giồi đức
hạnh thì nhơn cách mới hoàn toàn. Ðức hạnh là điều cần nhứt của bực tu hành. Thành
Tiên, thành Phật cũng nhờ đức hạnh, vì thuở nay chưa từng nghe có Tiên Phật nào mà
không hoàn toàn đức hạnh. Thái Thượng khuyên lập đức, Khổng Thánh dạy tu thân, lập
đức tu thân là căn bổn của Tôn Giáo. Muốn vẹn bề đức hạnh, ngoài ra đạo Tam Cang
Ngũ Thường (1) ta lại cần phải giữ sao cho đặng khiêm nhượng, nhẫn nại, thuận hòa,
kiên tâm, thanh liêm, thì mới gọi là khắc kỷ (2), mới gấm ghé đặng phẩm vị Thần Tiên
vậy.
Khiêm nhượng
Sao gọi là khiêm nhượng? Khiêm nhượng là hạ mình để nhượng người, tặng người
trên mình vậy. Ðấng Chí Tôn có dạy rằng: "Hạnh khiêm nhượng là hạnh yêu dấu của
Thầy ... Các con phải cho khiêm nhượng mới độ rỗi thiên hạ đặng".
Kẻ tài sơ mà biết khiêm nhượng, người bác học mới vui dạ dắt dìu; người bác học
mà biết khiêm nhượng, kẻ tài sơ mới đem lòng mến phục. Nên biết rằng dầu mình tài cao
trí sáng đến bực nào đi nữa, cũng có người khá giỏi hơn mình. Vả lại, nếu đem cái sức
học hữu hạn của mình mà so sánh với biển Thánh minh mông, rừng nhu thăm thẳm thì có
thấm tháp vào đâu mà mong tự đắc. Vì vậy mà Thánh Hiền xưa có nói: "Học chừng nào,
càng thấy mình dốt chừng nấy". Thánh Hiền xưa thì vậy, con người đời nay, phần nhiều
hễ mở miệng ra đà khoe mình giỏi, không đợi ai khen; cái tánh tự kiêu ấy làm cho lòng
dạ tối tăm, có mắt mà không biết thấy, có trí mà không biết suy, vì vậy nên hễ việc chi
của mình làm, lời chi của mình thốt đều cho là phải cả, rồi hiu hiu tự đắc, xem người như
không có; ai nói cũng không nghe; ai khuyên cũng không nạp; ai trách lại không dung.
Kẻ tự kiêu là ngu xuẩn thì không quan hệ chi, vì đã là ngu xuẩn thì không ai thèm
phục; cho nên kẻ ấy không làm hại đến ai, chỉ có làm trò cho thiên hạ cười chơi vậy thôi.
Ðến như kẻ tự kiêu mà tài giỏi thì rất nên nguy hiểm, vì kẻ ấy đủ tài lực chuyên chế cả
hạng người tinh thần yếu ớt rồi một mình làm quấy kéo cả bọn quấy theo; một mình nghị
sai hại cả một đoàn sai cả. Có câu rằng: "Thiên Ðạo ố dinh nhi ích khiêm". Nghĩa là :
"Ðạo Trời ghét đầy mà thêm vơi, nghĩa là ghét kẻ tự kiêu mà giúp cho người khiêm
nhượng". Quí hóa thay hạnh khiêm nhượng! Nguy hiểm thay tánh tự kiêu!
(1) Ðạo Tam Cang Ngũ Thường đã có nhiều sách giải rồi, tưởng không cần luận
ra đây cho choán giấy.
(2) Khắc kỷ là thắng mình (la maitrise de soi) là đè ép được tánh tình chẳng tốt.
________________________________________________________________________
Phương Châm Hành Ðạo Trang 9 / 22
Nhẫn nại
Ðức nhẫn nại là đức nhịn nhục. Người biết nhẫn nại không đua tranh, cãi cọ với ai,
cứ giữ thái độ ôn hòa, ai nhạo báng không hờn, ai chê bai chẳng giận.
Việc chi mà hai bên phải xung đột kịch liệt nhau, nếu một đàng biết nhẫn nại thì
việc cũng hóa êm, tỉ như hai đầu dây, một bên thẳng, một bên dùn, thì chẳng hề dây đứt.
Nên biết rằng, nhẫn nại là không phải xấu, chỉ muốn xuôi mọi việc mà thôi, cho nên
phương ngôn có câu: "Một câu nhịn bằng chín câu lành".
Ðức nhẫn nại rất cần ích cho mọi người, nhứt là cho người hành Ðạo, vì người
hành Ðạo thường hay gặp điều khó khăn gay trở, nào là kẻ nầy vấn nạn, nào là người kia
công kích, nếu không nhẫn nại cho qua buổi, chi cho khỏi sanh ra lắm cuộc dở dang bất
hòa, mà hễ bất hòa thì còn mong chi độ người cho được.
Thuở trước có một người trong hàng đệ tử Ðức Thích Ca xin đi truyền Ðạo, Ðức
Phật hỏi rằng: "Nếu truyền giáo người ta không nghe, còn trở lại mắng nhiếc, thì hiền đồ
liệu sao?"
Thưa: "Nếu ai mắng nhiếc, thì đệ tử chắc rằng người ấy là người tốt, vì họ không
đánh đập".
Hỏi: "Nếu họ đánh thì hiền đồ liệu sao?"
Thưa: "Ðệ tử cũng cho họ là lành tốt, vì họ chỉ đánh đập chớ chưa hề đâm chém".
Hỏi: "Nếu họ đâm chém thì hiền đồ liệu sao?"
Thưa: "Ðệ tử cũng cho họ là lành tốt, vì họ không đành lòng chém đệ tử đến chết".
Hỏi: "Nếu họ chém chết mới liệu sao?"
Thưa: "Ðệ tử sẽ cho họ là người ơn, vì nhờ họ đệ tử khỏi đau đớn mà thoát được
cái xác thịt thúi hôi tù túng nầy".
Ấy là một gương nhẫn nại chúng ta nên noi theo trong mảy mún để đi truyền Ðạo.
Thuận hòa
Sách có câu: "Ðịa lợi bất như nhơn hòa". Nghĩa là: "Ðất lợi chẳng bằng người
hòa". Cho nên gia đình nào mà chẳng thuận hòa thì gia đình ấy chẳng đặng yên ổn; chồng
trách vợ, vợ hờn chồng, gia đạo không thành, rồi ra lắm điều cắn đắng.
________________________________________________________________________
Phương Châm Hành Ðạo Trang 10 / 22
Thân tộc nào chẳng thuận hòa, tức là thân tộc ấy phải mất niềm tương hảo, rồi đối
với nhau không những là không mật thiết, mà lại còn chống trả nhau, trách thiện nhau,
nghịch lẫn nhau cho tương tàn cốt nhục.
Xã hội nào mà chẳng thuận hòa tức là xã hội ấy phải đảo điên rối rắm chẳng chi là
trật tự, công bình, rồi mạnh đè yếu, trí hiếp ngu, lê thứ phân vân, dân tình ly loạn.
Tôn giáo cũng như một gia đình, một thân tộc, một xã hội vậy. Tôn chỉ Ðạo dầu
cao thượng đến đâu đi nữa, nếu người hành Ðạo không được thuận hòa, nền Ðạo tức phải
vì đó mà nghiêng đổ. Nền Ðạo tỷ như nhơn thân, mỗi người hành Ðạo chẳng khác nào
một phần trong thân ấy. Giác quan, tạng phủ thảy đều ăn chịu nhau, nương cậy nhau cả,
thì người cùng chung một Ðạo cũng phải ăn chịu nhau, nương cậy nhau mới được. Xét
đến lẽ ấy rồi, người đồng Ðạo phải biết thương nhau, cư xử cùng nhau cho hết dạ thuận
hòa, trên dạy dưới tuân lời, dưới khuyên trên vui dạ, mỗi việc chi trong Ðạo đều chung trí
nhau tính bàn rồi mới nên cử sự thì bề thi thố đã không sơ sót, mà tình đồng Ðạo càng
thêm mật thiết; như vậy mới tránh khỏi "cái hại chia phe lập đảng" mới không lỗi câu
"đồng Ðạo tương phân".
Tóm lại, đã gọi là đồng Ðạo, phải bỏ hết những thù hiềm ngày trước mà liên lạc
nhau, ỷ y nhau, đồng tâm hiệp lực vụ một chữ Hòa mà lo điều công ích cho nhơn sanh,
thì Thiên Ðạo mới chóng hoằng khai, sanh chúng sau nầy mới gội nhuần ân huệ.
Kiên tâm
Có người thuở nay thường mang tiếng "làm chi không nên việc". Bất câu việc gì,
lúc ban đầu thì hô hào sốt sắng, rồi không bao lâu lại thối chí, ngã lòng thành ra cuộc bán
đồ nhi phế (1): Ấy là tại không hay chịu cực và chẳng biết kiên tâm (bền lòng). Việc thế
mà còn vậy, hà huống là việc tu hành khổ hạnh? Cho nên bực tu hành cần phải biết kiên
tâm trì chí hơn người ở thế mới nên cho; khó khăn phải rán, cực khổ phải cam, thì mới
mong giữ tròn bổn phận.
Nghĩ coi, muốn làm quan cần phải xôi kinh nấu sử khuya sớm nhọc nhằn từ mười
năm sắp lên mới đặng, hà huống là muốn đạt phẩm vị Thần Tiên, thì bảo sao không phải
cần lao khổ hạnh? Cho nên ngạn ngữ có câu: "Chí công mài sắt chầy ngày nên kim".
Chư Ðạo hữu cần phải nhắc nhở nhau về hạnh nầy cho lắm.
(1) Bán đồ nhi phế là giữa đường mà bỏ, nghĩa là làm không nên việc.
Thanh liêm
Thánh Nhơn có câu: "Lấy của trái lẽ thì mất đức thanh liêm". Thế thì hai chữ thanh
liêm không những chỉ về quan viên mà thôi, mà lại chỉ chung về cả dân tình cùng người
tu niệm nữa. Thanh liêm là gì? Là giữ mình cho trong sạch, không tham lam của ai. Làm
________________________________________________________________________
Phương Châm Hành Ðạo Trang 11 / 22
quan thanh liêm, trị dân mới công bình, chánh trực; rồi dân sự mới khỏi vì thế lực kim
tiền mà bị kẻ vô lương đè ép. Làm dân mà đặng thanh liêm trong xứ mới khỏi lo trộm
cướp. Làm Ðạo mà vẹn đức thanh liêm, thì lương tâm mới khỏi cắn rứt.
Tài chánh của Ðạo vốn là của chung trong bổn đạo chớ không phải riêng ai; cho
nên người hành đạo chẳng phép lấy của chung mà xài riêng cho mình đặng.
Người nào lợi dụng danh Ðạo mà thủ lợi; hoặc cậy quyền thế ép buộc chư Tín Ðồ
tốn kém vì mình, hoặc là thâu đa nạp thiểu, thì mất hẳn đức thanh liêm. Hễ mất đức thanh
liêm thì bao nhiêu công lao tu niệm của mình nơi Tiên thơ thảy đều bị bôi xóa. Cử chỉ
người hành đạo cần phải cho minh chánh: Như phận sự mình hay về việc lý tài, thì xuất
phát đâu đó cần phải phân minh; lại cũng chẳng nên tự chuyên lấy của chung mà làm việc
chi tùy ý mình; giữ đặng vậy, trên chẳng hổ với Ðấng Chí Tôn cùng chư Thần, Thánh,
Tiên, Phật, dưới lại đặng lòng tin cậy của chư Ðạo Hữu cùng tránh khỏi những việc hiềm
nghi của chư vị hảo tâm thiện tín.
________________________________________________________________________
Phương Châm Hành Ðạo Trang 12 / 22
II. NGƯỜI TRONG ÐẠO PHẢI ÐỐI ÐÃI NHAU THẾ NÀO?
Ở đời, người ta cần phải giao tiếp (1) với nhau; đối với chư Ðạo Hữu, sự giao tiếp
ta lại có cái tình liên lạc chí thành, cái nghĩa tương thân chí thiết. Giao tiếp mà chi? Là để
dìu dắt nhau, nâng đỡ nhau trong đường Ðạo và đường Ðời, anh lớn chỉ biểu cho em nhỏ,
người rõ đạo bày vẽ cho kẻ chưa thông; người nầy lầm lỗi kẻ kia chỉ giùm; dưới vui tuân
lệnh trên dạy; trên không hổ cho dưới bày; lấy lẽ hòa nhau, trên khiêm dưới kỉnh; vui vẻ
chung nhau, buồn thảm sớt nhau, giao lưng đâu cật mà bồi đấp mối Ðạo Trời cho rõ là
con một cha, chung thờ một chủ nghĩa.
Ðấng Chí Tôn có giáng cơ dạy như vầy:
" Chẳng quản đồng tông mới một nhà,
" Cùng nhau một Ðạo, tức cùng Cha.
" Nghĩa nhân đành gởi thân trăm tuổi,
" Dạy lẫn cho nhau đặng chữ hòa.
Trong đường giao thiệp, ta cần phải lấy hết tấm lòng bác ái (2), đem hết tất dạ chí
thành (3), mà đối đãi nhau, thì đạo tâm ta mới biểu lộ ra cái gương chân chánh.
Ðồng Ðạo mà chẳng biết thương nhau, chẳng vãng lai thù tạc nhau, cứ nhà ai nấy
ở, ai khôn dại mặc ai, ai hoạn nạn thây ai, bo bo cứ giữ câu "Ðộc thiện kỳ thân" (4) thì
trái hẳn với chủ nghĩa Ðại Ðồng (5) của Ðạo Trời lắm đó.
1. Tín Ðồ
Ðứng vào hàng Tín Ðồ, cần phải kính tuân chư chức sắc Thiên Phong, vì chư
Thiên Phong là người đã thọ lãnh nơi Thượng Ðế một cái thiên chức đặc biệt để thông
truyền chánh giáo; người vẫn có cái quyền sai khiến chư Tín Ðồ về việc phải trong Ðạo.
Dầu bậc Thiên Phong mà tài sơ tuổi nhỏ hơn mình đi nữa, hàng Tín Ðồ cũng chẳng nên
hổ mình tùng sự, hoặc là vượt bực khinh khi ganh gổ, vượt bực khinh khi ganh gổ tức là
buộc vào mình cái tội vi lịnh cùng Thượng Ðế vậy.
Vả lại, chức sắc Thiên Phong chỉ có cái giới hạn trong khi hành sự mà thôi, ngoài
ra toàn là người đồng đạo với nhau, tức là Ðạo hữu với nhau vậy.
________________________________________________________________________
Phương Châm Hành Ðạo Trang 13 / 22
2. Chức sắc
Ðối với hàng Tín Ðồ, chư chức sắc Thiên Phong cần phải có cái hạnh khiêm cung
từ nhượng; phải dùng lời dịu ngọt mà dạy dỗ kẻ dưới quyền mình; phải lấy nét ôn hòa
mình điều độ nhau; phải chỗ khiến thì khiến; không phải việc sai chớ nên sai, đừng làm
điều chi quá phận sự mà ra lẽ chuyên quyền. Chẳng nên tự cao, tự phụ; mình may nhờ
tiền căn cựu phẩm hoặc là công cả quả dày nên mới được chức Thiên Phong, biết đâu
trong hàng Tín Ðồ lại không có lắm người tài cao đức trọng hơn mình?
Chư Chức sắc và chư Tín Ðồ mà đối đãi nhau cho có thái độ ôn hòa thảo thuận thì
trên không chinh, dưới không mích, ấy là một lễ hiến cho Ðấng Chí Tôn rất long trọng đó
vậy.
(1) Giao tiếp là lân la lai vãng cùng nhau.
(2) Lòng bác ái là lòng đại từ bi thương xót sanh linh hơn thân mình.
(3) Chí thành là mỗi việc đều lấy lòng thành thật mà đối đãi nhau trong đường
Ðạo và đường đời.
(4) Ðộc thiện kỳ thân là lo cho một mình mình lành mà thôi.
(5) Ðại đồng là cả thảy nhân loại đồng một thể với nhau (Grande Unité
humaine).
________________________________________________________________________
Phương Châm Hành Ðạo Trang 14 / 22
III. ÐỐI VỚI NGƯỜI NGOẠI GIÁO
1. Ðối với Quan viên Chức sắc
Quan viên chức sắc là bực thay quyền Chánh Phủ để điều đình việc chánh trị và
hoài bảo cuộc an bình trong nước. Thế thì phận tôi dân ai lại không kính trọng quan viên,
nhứt là kẻ thành tâm tu niệm lại cần phải kỉnh tùng hơn nữa. Tại sao vậy? Vì người tu
niệm, đối với bực quan viên chức sắc, vẫn có hai phương diện: một là phương diện người
giữ đạo đối với hàng trưởng thượng; hai là phương diện bực thần dân đối với hàng quan
lại. Người giữ đạo đối với hàng trưởng thượng phải giữ sao cho có lễ nghĩa, khiêm
nhường; trên dạy điều phải đạo, dưới thành thật vâng theo; trên bày điều trái lẽ, dưới
cung kỉnh chối từ; chớ nên nói năng vô lễ, vượt bực loạn hàng. Giữ được vậy không
những người trên thương mến, chúng bạn ngợi khen, lại còn làm cho rỡ ràng danh Ðạo
thêm nữa.
Bực thần dân đối với hàng quan lại cũng không ngoài cái phạm vi lễ nghĩa, khiêm
nhường. Quan viên chức sắc, trong khi hành sự, dạy điều chi kẻ dưới phải tuân theo, vì
người thay quyền cho Chánh Phủ; vi lịnh người tức là vi lịnh Chánh Phủ, mà lịnh Chánh
Phủ thì chẳng khi nào trái cải đặng. Nhưng quyền hành của quan viên chức sắc cũng
không ngoài giới hạn của Luật định cho; dầu vậy mặc dầu, nếu quan viên nào chuyên
quyền áp chế ta, ta chẳng nên chống chỏi lại liền, vì nếu chống chỏi lại liền, quấy phải gì
sau sẽ hay, chớ trước hết ta đã chịu một phần lỗi trọng trong ấy. Thế nào cũng còn có kêu
nài nơi quan trên nữa, vì luật pháp Chánh Phủ đặt ra, không những trừng trị kẻ thường
dân mà thôi, mà lại cũng trừng trị đến chư chức sắc quan viên nào chuyên quyền, trái lệ.
2. Ðối với người khác Ðạo
Một đôi người không thông đạo lý, hay tưởng rằng hễ vào Ðạo rồi thì chỉ biết
người trong bổn Ðạo mà thôi, ngoài ra không chịu giao thiệp với người khác Ðạo, thậm
chí đến đỗi khi thị không khứng làm ăn chung với người ta nữa. Tưởng vậy rất lầm; Ðạo
gốc tại lòng bác ái; tôn chỉ Ðạo là cứu nhơn độ thế, nghĩa là cứu vớt cả sanh linh, xót
thương cả nhơn loại, chớ không phải riêng người trong Ðạo mà thôi. Nhiều vị chưa vào
Ðạo là tại chưa rõ tôn chỉ Ðạo Trời cao thượng thể nào, chớ biết đâu trong phần đó lại
không có lắm bực nhơn từ đạo đức. Vì vậy nên, khi thị người ngoại Ðạo thì rất lầm,
không giao thiệp với người ngoại Ðạo là trái tôn chỉ đó.
3. Ðối với người nghịch Ðạo
Bất câu là Ðạo nào, hễ mới khai ra tất phải gặp lắm điều gay trở. Khi Ðức Thích
Ca truyền Ðạo, dân Bà la môn (Brahma) cho là Bàn Môn vì khác chánh giáo Phật Ðạo
________________________________________________________________________
Phương Châm Hành Ðạo Trang 15 / 22
buổi ấy; khi Ðức Lão Tử truyền Ðạo, kẻ đồng thời cho là phép mê hoặc; khi Ðức Chúa
Giê Giu truyền Ðạo, nhà Israel gọi là cải chánh Ðạo, đến đỗi bắt giết đi, bảo sao ngày nay
chúng ta lại không chịu lắm điều khó khăn gay trở?
Mặc tình ai bẻ bai nghịch Ðạo, miễn không chuyên chế cùng không làm điều chi
can danh phạm nghĩa đến ta, thì ta cũng nên giữ tròn thái độ ôn hòa lễ nghi, rốt cuộc rồi
họ phải hổ mình mà tự hối.
Vả lại, mình vào Ðạo là mình đã biết tôn chỉ tối cao của Ðạo, người nghịch Ðạo là
người không hiểu đến, vì "lộ bất hành bất đáo"; thế thì người biết Ðạo mà ra đua tranh,
cãi cọ với kẻ không biết, đã chẳng bổ ích vào đâu lại còn mất ngày giờ vô lối.
________________________________________________________________________
Phương Châm Hành Ðạo Trang 16 / 22
IV. PHỔ THÔNG THIÊN ÐẠO
Chư Thiên phong là người đã thọ lãnh một trách nhậm rất lớn lao để phổ thông
Thiên Ðạo. Người ngoài cho Ðạo mình chơn chánh cùng chăng là do nơi cử chỉ hành
động của người làm đạo. Vì vậy nên người đi truyền Ðạo cần nhứt phải giữ cho tròn phận
sự của mình, một là làm sao cho sáng Ðạo Trời, hai nữa để làm gương cho đoàn em bắt
chước.
Người đi truyền Ðạo cần phải đủ tư cách tu hành thì nhơn tâm mới phục.
1. Thuyết Ðạo
Mỗi lần thuyết Ðạo, cứ theo chánh lý giải bày, chẳng nên tôn trọng Ðạo mình thái
quá mà mục hạ đến Tôn Giáo khác; chẳng đặng luận bàn quốc sự; chẳng đặng bày điều
huyễn hoặc làm cho náo động lòng người cùng mất cuộc trị bình trong nước; chẳng đặng
dùng thói dị đoan mê tín mà mê hoặc lòng người. Trong khi thuyết Ðạo, nếu ai kích bác
mà dùng lời khiêm từ tao nhã, mình cũng nên giữ lấy thái độ ôn hòa mà đối đáp, trừ ra kẻ
nào vô lễ thì mình phải nhịn mà làm thinh, song chẳng nên hờn giận.
2. Khai Ðàn
Khi đến khai đàn làm lễ thượng trang cho người mới vào Ðạo, trước hết phải xem
coi cuộc sắp đặt nơi Thiên bàn có nghi tiết và tinh tấn chăng? Nghi tiết phải sắp đặt theo
cách thờ phượng của Ðại Ðạo Tam Kỳ Phổ Ðộ; chư Thiên Phong chứng đàn không đặng
phép tự chuyên canh cải nghi tiết theo ý muốn của mình. Chẳng nên để cho đàn chủ tốn
kém tiền chi vì mình hết. Chẳng đặng phép thâu góp tiền chi của ai cả; dầu ai muốn gởi
tiền cúng về Thánh Thất hoặc là nhang đèn cũng chẳng đặng lãnh thế (ai hảo tâm đến
Thánh Thất mà cúng); như vậy mới tránh khỏi hiềm nghi dị nghị. Chức sắc hành Ðạo mà
giữ đặng cử chỉ minh chánh như vậy, không những là chư Tín Ðồ tùng phục, mà người
ngoại Ðạo trông vào cũng chẳng lời chi bác bẻ.
Mỗi lần khai đàn, chẳng nên nhóm quá số hai mươi người, trừ ra khi nào có phép
quan cho thì mới nên nhóm nhau đông đảo.
Hành Ðạo mà giữ tròn phận sự, biết kiêng phép Nước, biết giữ luật hình, thì quyền
tự do tín ngưỡng của mình mới không ai phạm đến.
________________________________________________________________________
Phương Châm Hành Ðạo Trang 17 / 22
V. PHẢI NĂNG HẦU ÐÀN
Vào Ðạo rồi, chớ nên lầm tưởng rằng nhà mình có lập vị thờ Thượng Ðế, mỗi bữa
cúng tứ thời là đủ; cần chi phải đến Thánh Thất hầu đàn vì đâu cũng Thầy vậy.
Nghĩ như thế rất sai. Thánh Thất là nhà thờ chung lập ra cho chư Ðạo hữu tới ngày
sóc vọng (1) tựu đến, trước là dưng đại lễ cúng Thầy cùng nghe thuyết Pháp, sau nữa là
có dịp cho mình hội hiệp nhau để luận bàn đạo đức cùng xe chặt mối tương thân.
Thánh Thất lại là nơi biểu hiện nền chơn Ðạo của Ðấng Chí Tôn. Do đó mà nhơn
sanh mới biết cách hành đạo cùng cách sắp đặt đạo nghi niêm thức của mình ra thể nào;
do đó mà Ðạo mới dễ phổ thông. Cho nên ngày sóc vọng chư Ðạo hữu nơi nào cần đến
Thánh Thất nơi đó hầu đàn cho đông đảo, thì Ðạo mới ra vẻ thạnh hành. Nếu mỗi người
cứ nói ở nhà cũng có Thầy, rồi nhà ai nấy cúng mãi, thì Thánh Thất tất phải bỏ không, ấy
có phải là điều đại quan hệ cho nền Ðạo lắm chăng?
Có người lại lầm tưởng rằng hễ nhập môn nơi Thánh Thất nào cứ hầu đàn nơi đó,
còn mấy Thánh Thất khác không cần phải đến. Xin phải biết rằng Thánh Thất nào cũng
thờ một Ðấng Chí Tôn mà thôi; Thánh Thất nào cũng là Thánh Thất chung của Ðạo, chớ
không phải của riêng ai mà phòng nói Thánh Thất nầy Thánh Thất nọ. Giả sử như khi
trước chỗ mình ở chưa lập Thánh Thất, mình phải nhập môn nơi khác. Nay chỗ mình có
Thánh Thất rồi, mình nên hầu đàn chỗ mình cho tiện hơn, một là khỏi mất công đi xa, hai
là khỏi tốn tiền lộ phí.
Còn các Thánh Thất khác ở xa, như mình có dịp đi đến, lẽ cũng nên ghé vào, một
là làm lễ Ðấng Chí Tôn, hai nữa cho biết chư Ðạo hữu nơi đó.
Tóm lại, vào Ðạo rồi cần phải năng đến Thánh Thất hầu đàn trừ ra khi bận việc
nhà, mới nên vắng mặt.
(1) Thánh Thất một tháng tới hai kỳ đàn lệ.
________________________________________________________________________
Phương Châm Hành Ðạo Trang 18 / 22
VI. ÐIỀU LỆ HẦU ÐÀN
Cúng tế Trời Phật qui tại lòng thành kỉnh. Chư Ðạo hữu nam nữ, chư Nhu, chư Tín
nữ đến hầu đàn phải cho tinh khiết nghiêm trang.
Vậy thì:
Trước khi đến hầu đàn, phải dọn mình cho sạch sẽ, hết lòng thành kỉnh mà khẩn
nguyện cùng Trời Phật. Ðến đàn rồi phải giữ lễ nghi cho thiệt nghiêm trang.
Trước khi chỉnh đàn, không đặng ở trước Thiên bàn mà giỡn cợt hay là nói điều chi
hoại sự cùng là khạc nhổ trong đàn.
Dầu chỉnh đàn rồi, dầu chưa chỉnh đàn cũng vậy, nam nữ phải cho phân biệt thứ tự
hẳn hòi; cứ trong ngó ra, thì nam tả, nữ hữu, không được lộn xộn, không phép nói cười lả
lơi, không đặng lời to tiếng nhỏ, không đặng phép đem chuyện người ngoài mà thuật lại,
không đặng luận bàn quốc sự, không đặng đồn đãi điều chi huyễn hoặc, không đặng nhắc
chuyện bất bình buổi trước mà cải lẫy nhau, không đặng hơn thua rầy rà, không đặng nói
chuyện của Ðạo hữu vắng mặt, không đặng dùng lời quanh co xoi bói nhau, không đặng
gìn ý nói chơi mà kỳ trung châm chích nhau, không đặng đem lên đàn những sách vở chi
khác hơn là sách vở mà Hội Thánh đã phê chuẩn.
Khi nhập đàn
Nhập đàn phải khăn đen áo dài; môn đệ của Ðấng Chí Tôn thì sắc phục cứ tuân
theo Thánh ý, mỗi người ai phải lo phận nấy, giữ cho khỏi vô lễ với Ðấng Chí Tôn cùng
chư Thần, Thánh, Tiên, Phật.
Chỉnh đàn rồi, phải phân hàng đứng hầu lẳng lặng, khi cúng phải cho đại tịnh.
Ai mặc âu phục thì quần áo phải đoan trang theo phép Âu. Nhập đàn rồi, phải đi
chơn không, không đặng hút thuốc, không đặng ăn trầu.
Những người uống rượu lỡ thì không nên nhập đàn. Hầu đàn thì thân thể phải cho
tinh sạch, lòng dạ kỉnh thành. Việc tinh khiết cùng chẳng tinh khiết trong mình, thì ai biết
nấy, chớ người nào khác hơn mình thì không thế rõ đặng. Ai đến lỡ mà trong mình không
tinh khiết thì chẳng khá nhập đàn, e mang lỗi cùng Trời Phật.
Trước khi cúng Ðấng Chí Tôn, thường có thuyết Ðạo, thì cả thảy phải lẳng lặng mà
nghe. Ai có điều chi không hiểu hay là không vừa ý, thì chờ thuyết giả nói hết rồi mới hỏi
lại, chẳng đặng cãi cọ giữa chừng. Còn xin hỏi, thì ai xin nấy hỏi, mấy Ðạo hữu khác
________________________________________________________________________
Phương Châm Hành Ðạo Trang 19 / 22
không đặng xen vào cãi lẫy. Như ai có muốn cãi, muốn hỏi điều chi, thì phải xin phép
thuyết giả, chớ không đặng người nầy nói, người kia cãi om sòm, thì là vô lễ lắm.
Khi cúng cùng là khi thuyết Ðạo, Ðạo hữu nào còn ở hậu đường cũng phải giữ cho
êm tịnh, không đặng làm rầy rà, cùng đi đứng lộn xộn, khua guốc, khua giày lộp cộp, lạc
cạc.
________________________________________________________________________
Phương Châm Hành Ðạo Trang 20 / 22
VII. PHẢI XEM KINH SÁCH, LUẬT LỆ
Sách kinh luật lệ trong Ðạo chẳng khác nào ngọn đèn để soi tỏ bước đường cho
người giữ Ðạo.
Người ít học cần năng đọc sách xem kinh, một là mở mang kiến thức cho mình, hai
đặng rõ thông đạo lý. Luật Ðạo là qui tắc dọn sẵn để mọi người do theo mà hành đạo cho
có chuẩn thằng, cho khỏi phạm điều giới cấm. Có người nhập môn rồi mà không lo học
hỏi theo kinh sách, giữ mình theo luật lệ; mỗi ngày miễn cúng tứ thời là gọi đủ, rồi than
phiền rằng vào Ðạo rồi mà không thấy ai chỉ bày tâm pháp đạo lý chi hết. Than phiền như
vậy rất sai lầm, vì số bổn đạo vẫn hằng ức hằng triệu, ai hơi đâu chỉ biểu từng người.
Thiên thơ sẵn, chơn kinh sẵn, tại mình không thỉnh mà xem để than phiền trái lẽ.
Ðó là phần người ít học. Còn phần người trí thức, tuy mình tài cao trí rộng mặc
dầu, chớ mới bước chơn vào cửa Ðạo, không thể nào hiểu Ðạo cho rành, mà dầu có hiểu
thông đạo lý đi nữa, cũng nên xem kinh sách nào thuở nay mình chưa đọc đến, vì kinh
sách ấy có lẽ cũng giúp thêm kiến thức cho mình nhiều ít. Vả lại, tuy mình tài trí mặc
dầu, chớ mới đầu cơ, thế nào hiểu thấu tôn chỉ cùng luật pháp đạo mầu cho rành rẽ. Ví dụ
như một vị thông minh kia sang đến xứ lạ nọ, muốn biết đường sá nơi ấy, cần phải hỏi
thăm người bổn thổ, chớ có đâu tự phụ mình là người thông thái không cần chi phải hỏi
han đến kẻ thường nhơn thiểu học. Việc Ðạo cũng vậy; mình giỏi là giỏi về phương diện
khác mà thôi, chớ mới vào cửa Ðạo, tức cần phải hỏi Ðạo nơi người thông Ðạo trước
mình, hoặc là học cứu nơi kinh sách. Ðến khi rõ thông đạo lý rành rẽ rồi, nhờ trí thức của
mình ra công nghiên cứu thêm nữa, có lẽ mình sẽ trổi hơn người đã chỉ dẫn cho mình
trước đó, rồi mình có thể trước tác ra nhiều sách vở có giá trị hơn sách vở mà mình đã
xem trong buổi nhập môn cầu Ðạo.
________________________________________________________________________
Phương Châm Hành Ðạo Trang 21 / 22
VIII. PHẢI XEM KINH SÁCH THẾ NÀO?
Kinh sách vẫn do nơi các Ngài rõ thông đạo lý soạn ra, song các bực ấy vốn cũng
người phàm như mình (1) nên cũng có chỗ sai lầm sơ sót; vì vậy mà kinh sách tự nơi mấy
vị ấy soạn ra cũng có chỗ khuyết điểm sai lầm. Vả lại kinh sách làm ra phải hạp thời tùy
thế. Có nhiều quyển kinh xưa sách cũ đối với đời trước thì rất hạp thời, mà đối với đời
nay lại có lắm điều không hạp. (Tác giả không trưng bằng cớ ra đây là không muốn kích
bác đến kinh sách nào cả).
Vậy nên, muốn đọc kinh sách nào cho được bổ ích, là cần biết suy nghĩ nghiên cứu,
khoản nào chánh lý để lòng, đoạn nào mơ hồ chớ nên tin vội, chỗ nào hạp theo thời thế
thì nghe, khoản nào nghịch với tôn chỉ mình thời bỏ. Chẳng nên quá tin nơi kinh sách,
chớ nên tưởng rằng kinh sách của Thánh Hiền làm ra cả thảy, nên dạy sao phải nghe nấy;
đọc sách như vậy thì nguy hiểm đó. Kinh sách có chỗ đáng tin mà có chỗ cũng không nên
tin vậy; nếu tin hết thì phải lầm lạc; đọc kinh sách mà không biết phân biệt điều nào hữu
lý, điều nào phi lý, đọc kinh sách mà trí thức không biết mở mang, tư tưởng không biết
dò lượng thành ra đã tổn công vô ích lại còn làm nô lệ cho kinh sách nữa; như vậy thà là
đừng đọc là hơn. Sách có câu: "Tận tín thơ bất như vô thơ". Nghĩa là : "Tin hết sách
chẳng bằng đọc được sách". (*)
Thuở nay nhiều người quá tin nơi kinh sách điển xưa, cứ nhắm mắt tin theo từng
chữ, nghe từng câu, rồi hiểu sái, tin lầm, khổ tâm luyện Ðạo. Than ôi! Ðã không ấn
chứng, thì chớ lại còn hại đến tinh thần là khác. Ấy vậy, xem kinh sách để rõ thông đạo lý
thì nên, chớ do theo đó mà luyện Ðạo thì nguy lắm, vì hễ hiểu lầm một mảy thì cũng đủ
hại cho châu thân.
Muốn luyện Ðạo cho ấn chứng, trước hết ta cần phải tu âm chất và lập công bồi
đức cho đủ đầy; đến khi công viên quả mãn rồi, một câu tâm pháp chơn truyền của Thầy
ta là Ðức Ngọc Hoàng Thượng Ðế cũng đủ cho ta hiểu Ðạo. Vả lại Ðức Thượng Ðế có
dạy rằng: "Kinh điển giúp đời siêu phàm nhập Thánh chẳng khác chi đũa ăn cơm. Chẳng
có nó kẻ ăn cơm bốc tay cũng ăn đặng". Ý Ðấng Chí Tôn muốn nói như vầy: "Kinh điển
tỉ như đủa, luyện Ðạo tỉ như ăn cơm. Người đủ âm chất, đạo đức mà rõ thông kinh điển,
thì luyện Ðạo rất giản tiện, tỷ như người ăn cơm có đũa vậy. Còn người có đủ âm chất,
đạo đức mà không rõ thông kinh điển đi nữa bất quá luyện Ðạo khó một chút vậy thôi,
thế nào luyện cũng thành đặng, tỷ như kẻ ăn cơm, dầu không đũa, bốc ăn cũng xong
vậy".
________________________________________________________________________
Phương Châm Hành Ðạo Trang 22 / 22
Tóm lại, vào cửa Ðạo rồi bất kỳ kinh xưa sách nay, thảy đều nên xem cho biết,
song cần phải xét suy chiêm nghiệm, phân biệt giả chơn thì đọc mới là bổ ích ./.
(1) Xin chớ lầm tưởng rằng kinh điển xưa vẫn là của Thánh Tiên làm ra hết; dầu
cho thiệt của Thánh Tiên đi nữa, cho lúc soạn ra kinh điển ấy, các Ngài cũng vẫn
còn phàm, thì tất phải còn lầm lạc.
(*) Phụ ghi: Chúng tôi nghĩ câu trên có thể là "Tin hết sách chẳng bằng không
đọc sách".
PHƯƠNG CHÂM HÀNH ÐẠO
Soạn Giả
Thượng Ðầu Sư LÊ VĂN TRUNG
Hội Thánh Giữ Bản Quyền
Giấy xuất bản Số 2909 BTT/BC3/XB ngày 12-10-1964
Tái bản năm Canh Tuất – 1970